CÁC BỘ TỨ CỦA NGƯỜI VIỆT
—o—o—o—
TỨ LINH
– Thanh Long – Bạch Hổ – Huyền Vũ (Quy Xà) – Chu Tước
– Long – Ly – Quy – Phượng
– Long – Lân – Quy – Phượng
– Tàng long (Rồng trong mây) – Ngoạ hổ (Hổ đứng núi) – Thần quy lạc thư – Long mã hà đồ (đền Ngọc Sơn)
TỨ HÀNH XUNG
– Tý – Ngọ – Mão – Dậu : Tý (Thủy) khắc Ngọ (Hỏa), Mão (Mộc) khắc Dậu (Kim) .
– Thìn – Tuất – Sửu – Mùi : Thìn (Thổ) khắc Tuất (Thổ), Sửu (Thổ) khắc Mùi (Thổ)
– Dần – Thân – Tỵ – Hợi : Dần (Mộc) khắc Thân (Kim), Tỵ (Hỏa) khắc Hợi (Thủy) .
TỨ TRỤ (trong Tử Vi/Bát Tự) : Năm sinh – Tháng sinh – Ngày sinh – Giờ sinh.
TỨ HOÁ (trong Tử Vi) : Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Kỵ (là bốn sao quan trọng có tác dụng biến đổi tính chất của các sao chủ)
TỨ QUÝ : Tùng – Cúc – Trúc – Mai
TỨ BÌNH
– Tố nữ đồ : Cô thổi sáo – Cô cầm sênh tiền – Cô cầm quạt – Cô gảy đàn nguyệt
TỨ VỊ VUA CHA : Tản Viên – Diêm Vương – Long Vương – Ngọc Hoàng
TỨ PHỦ : Thiên phủ (trời màu đỏ) – Nhạc phủ (rừng màu xanh) – Thoải phủ (nước màu trắng) – Địa phủ (đất màu vàng)
TỨ BẤT TỬ : Tản Viên Sơn Thánh – Phù Đổng Thiên Vương – Chử Đồng Tử – Liễu Hạnh
TỨ PHÁP : Mây (Pháp Vân-Chùa Dâu) – Mưa (Pháp Vũ-Chùa Đậu) – Sấm (Pháp Lôi-Chùa Tướng) – Chớp (Pháp Điện-Chùa Dàn)
THĂNG LONG TỨ XỨ : Xứ Đông – Xứ Đoài – Xứ Kinh Bắc – Xứ Sơn Nam
THĂNG LONG TỨ TRẤN : Trấn Đông (đền Bạch Mã) – Trấn Tây (đền Voi Phục) – Trấn Bắc (Đền Trấn Vũ) – Trấn Nam (đình Kim Liên)
THĂNG LONG TỨ QUÁN : Trấn Vũ Quán – Huyền Thiên Quán – Kim Cổ Quán – Đế Thích Quán
THĂNG LONG TỨ MIẾU : Văn Miếu – Võ Miếu – Y Miếu – Thái Miếu (Nhạc Miếu)
VĂN MIẾU – SINH & BẤT TỬ
Văn Miếu được thành lập bởi Lý Thánh Tông, rồi mới có Quốc Tử Giám là trường dạy văn cho con cháu tôn thất nhà Lý. Văn Miếu cùng bộ với Võ Miếu, Y Miếu và Thái Miếu, còn Quốc Tử Giám là trường dạy văn, cùng bộ với trường dạy võ ở khu Giảng Võ và trường dạy y.
Thờ
– Chu Công
– Khổng Tử
VÕ MIẾU – TỬ & SÁT SINH
Thờ
– Khương Tử Nha (đối xứng với Chu Công)
– Tôn Tử (đối xứng với Khổng Tử)
Y MIẾU – CHUYỂN HOÁ.
Y Miếu Thăng Long thờ Tuệ Tĩnh và Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
Nếu có một nhân vật bên Y Miếu đối xứng với Chu Công (Văn Miếu) và Khương Tử Nha (Võ Miếu) thì đó chính là người giữ sứ mệnh chuyển hoá để kết thúc nhà Trụ – Đắc Kỷ.
Nhân vật bên Y Miếu đối xứng với Không Tử (Văn Miếu) và Tôn Tử (Võ Miếu) là Lão Tử.
Y ở giữa văn và võ, đối xứng với Thái miếu. Nếu Văn Miếu ứng với sinh, Võ Miếu ứng với tử thì Y Miếu ứng với chuyển hoá sinh tử (cứu chết) và chuyển hoá tử sinh (cứu sống). Người đứng giữa sống chết, sinh tử, không ngả theo bên nào mới hành nghề y được. Đây là lời thề Y đức. Thề hết lòng cứu sống bệnh nhân là ngả theo sinh, vi phạm y đức cơ bản. Người cần chết mà không chết được thì cũng cần được hỗ trợ chuyển hoá trong cái chết như người cần sống mà găp khó khăn cần hỗ trợ chuyển hoá để sống được. Liên tục chuyển hoá để không chết tắc ở sống hay ở chết mới chính là y đức.
Nguyên lý của Y Đức phản ánh trong Kinh Dịch và Đạo Đức Kinh.
THÁI MIẾU – TRUNG HOÀ
Thái Miếu là ngôi miếu nằm trong hoàng thành Thăng Long.
Thái Miếu ở gần Trấn Bắc còn Văn Miếu, Y Miếu, Võ Miếu đều nằm gần nhau ở gần Trấn Nam Thăng Long.
Nếu có một nhân vật bên Thái Miếu đối xứng với Chu Công (Văn Miếu) và Khương Tử Nha (Võ Miếu) thì đó là Vũ Vương. Chu Vũ Vương (1110 TCN – 1043 TCN, tên thật là Cơ Phát, nhật danh là Vũ Đế Nhật Đinh, là vị vua sáng lập triều đại nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Nhà Chu là một nhánh tách ra từ dòng Vua Hùng ở đất Thăng Long vào thời Hùng Vương thứ 7 đi lên phía Bắc diệt Trụ. Cho nên, nhân vật của thời đại Vua Hùng giữ Thái Miếu, đối vứng với Chu Vũ Vương là Lang Liêu người sáng tạo ra bánh chưng bánh dày, để thờ tổ.
Bộ Tứ Miếu Thăng Long trụ đất nước khí lửa cho Thăng Long. Thái Miếu ứng với khí của ban thờ gia tiên ở nhà chính, Y Miếu ứng với lửa của nhà bếp, Văn Miếu ứng với nước của nhà tắm và Võ Miếu ứng với đất của nhà xí.