TÊN ĐI CẢ BỘ : NAM

Loading

TÊN ĐI CẢ BỘ NAM
NAM : Người
– Nam :
– – nam nữ,
– – nam nhi nữ nhi,
– – nam thần nữ thần …
– – bán nam bán nữ;
– – chuẩn nam chuẩn nữ
– – thuần nam thuần nữ,
– – tính nam tính nữ, nam tính nữ tính,
– – thứ nam thứ nữ, trưởng nam trưởng nữ
– Ma người chết đuối
– Một trong năm tước quan thời xưa: Công, hầu, bá, tử, nam.
NAM : phương, hướng
– Nam : Đông Tây Nam Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Bắc Nam
– An Nam
– Bắc nam
– Chỉ nam
– Cửa nam : Cửa Nam là một trong năm cửa ô là Nam (Đông Nam), Giám (Tây Nam), Bắc, Tây, Đông. Cửa Nam có tính Mộc Khí Thuỷ, đối xứng với cửa Giám có tính Kim Thổ Hoả.
– Cực nam
– Dân nam
– Đại Nam
– Đất nam
– Đình nam
– Đông nam
– Gió nam
– Giọng nam – Giọng Bắc
– Hải Nam
– Hát nam – Hát bắc
– Hướng nam : Nam là hướng vận hành, đặc biệt trên biển và trong các quan hệ
– Lĩnh nam
– Miền nam
– Người nam
– Nồm nam
– Nước Nam
– Phương nam
– Quảng nam
– Sa nam
– Sơn Nam :
– Tây nam
– Trấn nam
– Trời nam
– Việt nam
– Xứ nam
NAM
– Nam chiếu : Quốc gia Nam Chiếu
– Nam đàn
– Nam định
– Nam kỳ – Trung kỳ – Bắc kỳ
– Nam phương
– Nam Sách
– Nam sơn : Phúc như Đông Hải, Thọ tỉ Nam Sơn
– Nam trấn
– Nam vang
– Nam Việt
NAM
– Hát nam
– Nam ai, nam thương, nam bình.
– Nam mô

NAM HẢI : Thần Phật

– Quán Âm Nam Hải thờ ở chùa Hương Tích, Mỹ Đức, Hà Nội và chùa Hương Tích, Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh
– Đại Càn Quốc gia Nam Hải Tứ vị Thánh nương thở ở đền Mẫu Hưng Yên, Đền Cờn Nghệ An
– Cá ông Nam Hải thờ khắp các tỉnh ven biển
– Nam Hải Đại Thần Vương, thờ ở đền thờ Nam Hải Đại Thần Vương, đảo hòn Dáu, Đồ Sơn, Hải Phòng. Tương truyền, Đức Nam Hải Đại Thần Vương là danh tướng tuấn kiệt, dưới chướng Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Trong trận thuỷ chiến chống quân Nguyên – Mông trên Bạch Đằng Giang lịch sử, Nam Hải Đại Thần Vương đã hy sinh và hiển linh tại đảo Hòn Dấu – Đồ Sơn.
– Nam Hải Đại Vương, Thiên Lôi, Đức Thánh Niệm, Phạm Tử Nghi (1509-1551) là tướng nhà Mạc, người làng Vĩnh Niệm, tổng An Dương, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương, nay là phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. Ông được thờ chính tại Lăng Phạm Tử Nghi hay còn gọi là miếu Đôn Nghĩa, thuộc phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân.
– Nam Hải Đô Đốc, thờ ở Bến tàu không số K15 ở Đồ Sơn

NAM HẢI : Địa danh

Xã Nam Hải, huyện Tiền Hải, tỉnh Tháu BìnhXã Nam Hải, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định 

Thôn Nam Hải, Đông Các, Tp. Thái Bình, Thái Bình

Thôn Nam Hải, xã Đoàn Xá, huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng 

Thôn Nam Hải, xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình Thôn Nam Hải, xã Sơn Hải, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai Thôn Nam Hải, xã Kỳ Hải, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh

Thôn Nam Hài xã Nam Phương Tiến huyện Chương Mỹ

NAM : Hoàng đế & hoàng Hậu

– Tiền Lý Nam Đế, húy là Lý Bí hoặc Lý Bôn, là vị vua đầu tiên của nhà Tiền Lý và nước Vạn Xuân.
– Hậu Lý Nam Đế tên thật là Lý Phật Tử (518 – 602) người huyện Thái Bình (tỉnh Sơn Tây cũ, nay là Hà Nội), là cháu họ của Tiền Lý Nam Đế, là vua nhà Tiền Lý trong lịch sử Việt Nam (trị vì: 571 – 602)
– Nam Phương Hoàng Hậu

NAM NỮ

CÔ NAM QUẢ NỮ
Cô nam quả nữ
—o–
TRAI NAM GÁI HẢI
Trai Nam, gái Hải
—o—
NAM THANH NỮ TÚ
Nam thanh nữ tú
—o—
NAM NHI NỮ NHI
Hiếm hoi con gái đầu lòng
Làm dâu người khác chẳng trông cậy gì
Cầu trời sinh được nam nhi
Sau này nói dõi tông chi họ hàng
Trời cười, Trời mắng: rõ gàn
Nữ nhi không có sinh nam thế nào
Sao không suy nghĩ thấp cao
Nhà ngươi xưa ở chỗ nào chui ra
—o—
CÓ NAM CÓ NỮ
Có nam có nữ thời mới nên xuân
Có nên thì nói rằng nên
Chẳng nên sao để đấy quên đây đừng
Làm chi cho dạ ngập ngừng
Đã có cà cuống thì đừng hạt tiêu
—o—
BÊN NAM BÊN NỮ
Một đàn cò trắng bay chung
Bên nam bên nữ ta cùng cất lên
Cất lên một tiếng linh đình
Cho loan sánh phượng, cho mình sánh ta
—o—
NAM NỮ THU THỤ BẤT THÂN
Nam nữ thụ thụ bất thân
—o—
NAM NỮ ĐÁO PHÒNG
Nam đáo nữ phòng nam tất đãng,
Nữ đáo nam phòng nữ tất dâm.
Nghĩa là con trai đến phòng của con gái thì ắt là người phóng đãng, còn con gái đến phòng của con trai thì ắt là người dâm dật.
—o—
NAM ĐÁO NỮ PHÒNG
Anh bắt tay em cho thỏa tấm lòng
Chừng nào nam đáo nữ phòng sẽ hay
—o—
Quạ kêu nam đáo nữ phòng
Người dưng khác họ đem lòng nhớ thương
—o—

Quạ kêu nam đáo nữ phòng
Người dưng khác họ đem lòng nhớ thương
Chỉ điều ai khéo vấn vương
Mỗi người mỗi xứ mà thương nhau đời.

—o—

Quạ kêu nam đáo nữ phòng
Người dưng khác họ đem lòng nhớ thương
Liệu bề đát được thì đươn
Đừng gầy rồi bỏ thói thường cười chê.

—o—

Quạ kêu nam đáo nữ phòng
Người dưng khác họ đem lòng nhớ thương
Thương người một nắng hai sương
Thương người thương cả quê hương còn nghèo

—o—

Con quạ nó đậu nhánh gáo
Nó kêu nam đáo nữ phòng
Biểu với cô Hai đừng lấy hai chồng
Dao phay kia hai lưỡi nó hòng phanh thây

ĐỒNG TÂY NAM BẮC

ĐÔNG TÂY NAM BẮC

Dân đất Bắc
Đắp thành Nam
Đông đã là đông
Sầu tây vòi vọi

—o—

Thân em như trái xoài trên cây
Gió đông, gió tây, gió nam, gió bắc,
Nó đánh lúc la, lúc lắc trên cành
Một mai rơi xuống biết đành vào tay ai?

QUY NAM QUY TÂY
Tại nam quy nam! Tại tây quy tây!
—o—
ĐÔNG HẢI NAM SƠN

Phúc như Đông Hải, thọ tỉ Nam Sơn

—o—

NAM BẮC PHÂN TRANH

Nam Bắc phân tranh

—o—

Nam đánh giặc, bắc lấy công.

—o— 

VÀO NAM RA BẮC

Vào Nam ra Bắc

—o—

Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Gi
Sông xanh, núi cũng xanh rì
Vào Nam, ra Bắc ai cũng đi con đường này
Nghìn năm gương cũ còn đây
Lòng ơi! Phải lo nung son sắt kẻo nữa đầy bể dâu
—o—
– Đàn bà sao quá vô duyên
Mặc quần thủng đáy hớ hênh kia kìa
– Có gì đâu mà kia nọ, nọ kia
Chẳng qua vô ý mới chìa nó ra
Nó cho tôi làm mẹ, anh làm cha
Giữ dòng, giữ giống quốc gia hùng cường
Anh từng đi tám hướng, mười phương
Vào Nam ra Bắc, hội Nõ Nường xem chưa?
—o—
ĐÀNG NAM, ĐÀNG BẮC
Rung kêu đàng nam, cá vàng cá bạc
Rung kêu đàng bắc, bốc muối ra ăn
—o—
PHỤNG BẮC RỒNG NAM
Phụng với rồng cũng đồng nhan sắc
Trách ai làm phụng Bắc rồng Nam
—o—
CHỒNG BẮC VỢ NAM
Phụng với rồng cũng đồng nhan sắc
Kết cuộc rồi chồng Bắc vợ Nam
—o—
NHẠN NAM ÉN BẮC
Ơn tình dạ những ai hoài
Nhạn nam, én bắc lạc loài đôi phương
—o—
THUỐC NAM THUỐC BẮC
Thuốc nam đánh giặc,
Thuốc bắc lấy tiền
—o—
GIÓ NAM GIÓ BẮC

Hoa thơm trồng dựa hàng rào
Gió nam, gió bắc gió nào cũng thơm.

—o—

BÊN NAM BÊN BẮC
Miếng trầu là miếng trầu cay
Làm cho bể ái khi đầy khi vơi
Miếng trầu têm để trên cơi
Nắp vàng đậy lại đợi người tri âm
Miếng trầu kèm bức thư cầm
Chờ cho thấy khách tri âm sẽ chào
Miếng trầu têm để trên cao
Chờ cho thấy khách má đào mới cam
Miếng trầu têm ở bên nam
Mang sang bên bắc mời chàng hôm nay
Miếng trầu xanh rõ như mây
Hạt cau đỏ ối như dây tơ hồng
Miếng trầu như trúc như thông
Như hoa mới nở như rồng mới thêu
—o—

GIÓ NAM

Gió nam thổi xuống ngọt ngào
Thương người tóc cụt bới bao gọn gàng

—o—

Gió nam non thổi lòn hang chuột
Thấy em bơi xuồng đứt ruột, đứt gan

—o—

Mần thơ bằng lá trâm bầu
Để trên ngọn mạ, gió Nam lầu thổi bay

—o—

Gió nam non thổi lòn hang dế
Em ở trọn niềm có ế anh thương

—o—

Gió nam non thổi lòn hang dế
Con bạn xa rồi để nhớ để thương

—o—

Thương em chẳng dám trao trầu
Ðể trên bó mạ, gió Nam lầu thổi qua

—o—

Nam nắng buổi hôm
Nồm nắng buổi mai

—o—

– Gió nam non thổi lòn hang dế
Hỏi anh học trò mưu kế để đâu?
– Mưu kế anh để lại nhà
Ai dè em hỏi anh mà mang theo

—o—

– Gió nam non thổi lòn hang dế
Mấy anh học trò mưu kế để đâu?
– Gió năm non thổi lòn hang cóc
Mấy anh học trò mưu kế để trong óc, trong tim

—o—

Tháng mười lất phất gió nam
Tháng ba Đông Bắc có làm không ăn

—o—

Hoa thơm trồng dựa hàng rào
Gió nam, gió bắc gió nào cũng thơm.

—o—

Gió Nam anh chạy buồm mền
Qua sông gãy cột, ai đền cho anh?

—o—

Gió Nam anh chạy buồm mền
Muốn vô làm vợ bé, biết có bền đặng không?

—o—

Thiếp nhớ chàng tấm phên hư, nuộc lạt đứt
Chàng nhớ thiếp khi đắng nước lúc nghẹn cơm
Ba trăng là mấy mươi hôm?
Mai nam vắng trước, chiều nồm quạnh sau

—o—

Gió nam thổi xuống lò vôi
Ai đồn với bạn ta có đôi bạn buồn?

—o—

Gió nam thổi xuống lò vôi
Ai đem tin cho bạn biết ta có đôi bạn buồn

—o—

Hoa thơm trồng dựa cành rào
Gió nam, gió chướng, gió nào cũng thơm

—o—

Gió nam tốc dải yếm đào
Sao anh trông thấy oản anh không vào thắp hương

—o—

Gió nam hây hẩy chiều hôm
Xong việc gặt hái, ôm con thả diều

—o—

Gió nam non thổi lòn cánh cửa
Vợ anh hư rồi biết sửa sao nên

—o—

Cây oằn vì bởi gió Nam
Xa anh vì bởi mẹ ham kẻ giàu

—o—

Thuyền ngược ta nhắn gió nam
Thuyền xuôi ta nhắn mưa nguồn gió may

—o—

Căn duyên chăng đó hỡi trời
Gió nam phảng phất mát rồi lại không

—o—

Hoa thơm ở chốn lầu cao
Gió nam thổi xuống hướng nào cũng thơm

—o—

Ngó ra ngoài biển tăm tăm
Thấy ghe anh chạy có năm mái chèo
Khi nào không gió anh neo
Chờ cho gió lại, mở lèo anh đi
Anh đi Nước Ngọt, Đề Gi
Xông pha sóng gió kể chi nam, nồm

—o—

Gió nồm là gió nồm nam
Trách người quân tử ăn tham không mời

—o—

HƯỚNG NAM :

Vợ hiền hòa, nhà hướng Nam
Vợ đàn bà, nhà hướng nam
—o—
Kim chỉ Nam
—o—

CỬA NAM :

Nghìn thu gặp hội thái bình,
Trải xem phong cảnh khắp thành Thăng Long.
Phố ngoài bao bọc thành trong,
Cửa Nam, Giám, Bắc, Tây, Đông rõ ràng.
—o—

NƯỚC NAM

Nước Nam trai sắc gái tài
Gương bà Châu thị lưu đời ngàn năm
—o—
Chừng nào Chợ Lớn hết vôi
Nước Nam hết giặc em thôi đưa đò
—o—
Nghĩ xem cái nước Nam mình
Tây sang bảo hộ tài tình đến đâu?
Nghĩ xem tiền của ở đâu
Đưa ra mà bắc được cầu qua sông
Chả hay tiền của của chung
Đưa ra mà bắc qua sông Bồ Đề
Bắc cho thiên hạ đi về
Những cột dây thép khác gì nhện chăng
Tưởng rằng anh Pháp nghĩa nhân
Nào hay lấy của dân Nam làm giàu
Tưởng rằng bảo hộ cho nhau
Nào hay đánh mắng ra màu coi khinh
Cũng giang sơn, cũng triều đình
Thế mà nước mất, dân tình lầm than
Lo sưu, lo thuế đã cam
Nay kinh, mai lính, gian nan mịt mù
Dân thì phải thợ, phải phu
Tỉnh thành đặt chốn lao tù cấm ngăn
Một năm nào biết mấy lần
Nay thuế quốc trái, mai quân quốc phòng
Những quân vui thú nức lòng
Đua nhau ăn bẩn như muông khác gì
—o—
Năm Đinh Tỵ mười ba tháng bảy
Nước Nam mình phút dậy can qua
Thái Nguyên nay có một tòa
Khố xanh, khố đỏ được ba trăm người
Cũng chí toan chọc trời khuấy nước
Ông Đội ra đi trước cầm binh
Rủ nhau lập tiểu triều đình
Những là cai đội khố xanh bằng lòng
Duy phó quản bất tòng quân lệnh
Hóa cho nên hủy mệnh xót xa
Sai người mở cửa nhà pha
Đem tù ra điểm được là bao nhiêu?
Truyền tù nhân cứ theo quân lệnh
Chớ thị thường uổng mệnh như chơi
Rồi ra làm lễ tế trời
Cờ đề “Phục Quốc” tài bồi Nam bang
Phong tám tướng quyền đương quân chính
Tù ba trăm với lính ba trăm
Đều cùng phát súng cho cầm
Vai thì vác súng, lưng khuân đủ đồ
Đường tỉnh Thái kì khu chật vật
Các đường dây thép chặt ngay
Bấy giờ chủ tướng ra tay
Chọn đường mai phục, định ngày giao công
Kí dây thép lòng không theo phụ
Nối dây vào đường cũ đánh đi
Đánh về Hà Nội một khi
Trình rằng có giặc ở thì Thái Nguyên
Tòa thống sứ, toàn quyền hội nghị
Lại có lời phủ dụ ra cho
Bây giờ nhà nước sẽ lo
Sang nhà ông sáu nhỏ to sự tình
Tỉnh Thái Nguyên loạn binh quấy rối
Một đám tù, cai đội khố xanh
Vậy nên ông Sáu biết tình
Giấy tư sang tỉnh Bắc Ninh tức thì
Truyền ngũ tỉnh nơi nào cũng vậy
Lính Đáp Cầu phải dậy tiên phong
Lính Tây, khố đỏ hội đồng
Mang quân lên đóng đồn ông Chủ điền
Ngày mười sáu tiến lên giáp trận
Lính Tây đà tử trận trăm ba
Bấy giờ khố đỏ tiếp qua
Súng trường, trái phá, bắn hòa liên thanh
Xông lên thành khố xanh bỏ chạy
Kéo quân vào đóng tại đình trung
Ngoài thời trái phá đùng đùng
Khi vào đến tỉnh sạch không còn gì
Quân ông Đội liền đi lên núi
Đào hầm sâu làm chỗ lánh thân
Nửa đêm quân kéo đi dần
Qua vùng Tam Đảo về gần Vĩnh An
Mang quân thẳng hướng chợ Vàng
Đến làng Hoàng Xá rẽ ngang quân vào
Xã đoàn không biết nghĩ sao
Sai tuần ra hỏi quân nào đóng đây?
Tân quân mới nói khi nay
Các quan đi khôi phục ngày rày nước Nam
Truyền cho dân cứ ăn làm
Các quan đi mở nước không can cớ gì
Xã đoàn lòng vẫn hồ nghi
Tay cầm cái quắm đứng thì giờ lâu
Ông Đội truyền ra chặt đầu
Nếu không biết phép pheng đầu một khi!
Ông Đội sai quân tức thì
Mổ bò giết lợn kịp kì cơm ăn
Truyền đòi các cụ trong dân
Cho báo có giặc tân quân đóng làng
Việt Trì Tây mới kéo sang
Súng ống xe ngựa chật đường kéo đi
Đến ga Hướng Lại gặp thì
Quân Tây đến đó định kỳ nghỉ ngơi
Xe cộ tiếp vận tới nơi
Quân Tây đi trẩy ngất trời ghê thay!
Bài binh lập trận bủa vây
Thổi kèn, súng bắn đạn bay vào làng
Đi đùng như thể ngô rang
Bắn như cuội rải cản đường quân đi
Trời cao còn có thánh tri
Gió mưa kéo đến Tây thì thôi ngay
Đến hai mươi, tin này đã báo
Ông Đội kéo về đóng đạo Giang Tiên
Đêm nghe súng nổ vang rền
Lính thua, lính phải băng miền Tuyên Quang
Xuyên qua đèo Khế, đèo Giàng
Lính thua, lính lại kéo sang Hoàng Đàm
Bên Tây có ông ba xồm
Cho mày đi trước, mày nom beng đầu
Ông ba bắn chẳng trúng đầu
Ông Đội bắn một phát vỡ đầu quan ba
Ngày nổi dậy can qua xối động
Muốn hoàn công trời chẳng cho làm
Sau quân ông Đội phải tan
Quân thua, quân phải kéo sang bên Tàu
Sau chờ nấn ná ít lâu
Nuôi quân dưỡng tướng mưu cầu chuyện sau…
—o—

NƯỚC NAM TRIỀU

Kể từ lịch sử nước Nam triều,
Thương cho mấy người tài năng học sĩ chết đã nhiều vì Tây qua
Quảng Nam có ông Hường Hiệu ở Thanh Hà,
Trung thành với nước nên xa chốn triều thần
Về nhà sầu thảm với nhân dân,
Lâm vô tử trận chín mười phần còn chi
Tụi Tây qua đã tới Trung Kỳ,
Đế đô co kéo còn gì nước Nam
Giận thay cho chú Cần Thân,
Cầu tham lam mãi quốc biết ăn làm với ai
Nước Nam mình thiếu chi kẻ anh tài,
Văn chương đủ hết không dùi mài cho nên
Để cho nhà dột khó ngăn,
Thơ ông Hường để lại dưới đền đinh ninh
Thương thay cho cộng sản hữu tình,
Trung thành với Tổ quốc liều mình cho nên khô
Nghĩ sự tình thảm biết chừng mô,
Kẻ thì bị đày ra bỏ vợ, người bị giải vô bỏ chồng
Thù xưa còn hỡi ghi lòng,
Gang sơn Tổ quốc khi không mà thành
Giậm chân kêu với ông trời xanh,
Nhân dân xuất thế giặc Nam thành cũng tan
Đánh Anh, Tây, Nhật đầu hàng,
Sơn băng thuỷ kiệt mở mang cho nước nhà.
—o—

TRỜI NAM

Cơn mây gió trời Nam bảng lảng
Bước anh hùng nhiều chặng gian truân
Ngẫm xem con tạo xoay vần
Bày ra một cuộc duy tân cũng kì
Suốt thân sĩ ba kì Nam Bắc
Bỗng giật mình sực thức cơn mê
Học, thương, xoay đủ mọi nghề
Cái hồn ái quốc gọi về cũng mau
Hồn đã tỉnh, bảo nhau cùng dậy
Chưa học bò vội chạy đua theo
Khi lên như gió thổi diều
Trong hò xin thuế, ngoài reo hãm thành
Cách hoạt động người mình còn dại
Sức oai quyền ép lại càng mau
Tội nguyên đổ đám nho lưu
Bắc kì thân sĩ đứng đầu năm tên
Người tỉnh Bắc, Nguyễn Quyền là một
Cơn nhiệt thành lửa đốt buồng gan
Đùng đùng gió cuốn mây tan
Lạng thành giáo chức từ quan cáo về
Mở tân giới, xoay nghề tân học
Đón tân trào, dựng cuộc tân dân
Tân thư, tân báo, tân văn
Chân đi miệng nói xa gần thiếu đâu
Trường nghĩa thục đứng đầu dạy dỗ
Khắp ba mươi sáu phố Hà thành
Gái trai nô nức học hành
Giáo sư mấy lớp, học sanh mấy ngàn
Kỳ diễn thuyết người xem như hội
Buổi bình văn khách tới như mưa
Nôm quốc ngữ, chữ Hán thư
Bài ca yêu nước, câu thơ hiệp đoàn
Trong chín tháng, sóng tràn gió dập
Tiếng Đông kinh lừng khắp Đông Dương
Khắp đâu đâu cũng học trường
Cùng nhau đua bước lên đường văn minh
Họ càng thấy người mình càng ghét
Càng bảo nhau đè nẹt càng già
Thương ôi ấu trĩ sơn hà
Nước chưa lặng sóng, giò đà rung cây
Trong sóng gió nhưng tay vẫn vững
Bế học rồi lại đứng khai thương
Rủ nhau một hội Hồng Bàng
Hồng Tân Hưng mở ngôi hàng buôn chung
Đồ Nam hóa bá công kỹ xảo
Khách Bắc Hà thập hiệu vãng lai
Sửa sang trong cái khuôn trời
Mở mang trí não cho người nước ta
Trời đương buổi nắng mưa tầm tã
Dấn thân mình đứng giữa cơn giông
Cả gan cho biết anh hùng
Hỏi xem mấy mặt trong vòng trần ai
—o—

XỨ NAM

Xứ Nam nhất chợ Bằng Gồi
Xứ Bắc Vân Khám, xứ Đoài Hương Canh
Em là con gái xứ Nam
Chăm nghề đi cấy sang làm xứ Đông
Đồn rằng xứ Bắc cao công
Trốn cha trốn mẹ trốn chồng mà đi
—o—

NAM VIỆT

– Thân em như bộ lư đồng đỏ bên Tàu
Chở qua Nam Việt lựa nhà giàu bán chơi
– Thân anh như thằng ăn trộm cắt rào
Đụng lê anh cũng bẻ, gặp đào anh cũng quơ
Anh đánh ngạch vô thấu bàn thờ
Trước anh quơ đồ lặt vặt sau anh rờ bộ lư.
—o—
Mồ cha, mả mẹ anh đâu?
Còn vua còn chúa, hỏi anh cúp cái đầu thờ ai?
Chữ rằng phục quốc Tây lai,
Xem trong Nam Việt ai ai cũng buồn tình.
Nước Nam mình còn miếu, còn đình,
Còn khoa, còn mục, còn mình, còn ta,
Làm chi khác thể ông thầy chùa,
Khỏi xâu, khỏi thuế cũng nên đua cúp đầu.
—o—

VIỆT NAM

Việt Nam dân chủ cộng hòa
Đồ đạc bán trước, cửa nhà bán sau
Ăn cơm chỉ có mắm rau
Chớ ăn thịt cá mà đau dạ dày
—o—
VIỆT NAM

Kể từ quân Pháp sang đây
Hại người cướp của bấy nay đã nhiều
Dân tình đồ thán đủ điều
Căm gan tức chí phải liều ra tay
Anh hùng đã tỏ tài trai
Nữ nhi cũng chẳng kém loài bồng tang
Nhớ xưa phất ngọn cờ vàng
Bà Trưng, Bà Triệu chiến trường xông pha
Cai Vàng lại có bà Ba
Tây Sơn bà Phó cũng là anh thư
Xúm tay xoay lại cơ đồ
Dân yên quốc thịnh phất cờ Việt Nam
Từ ngày quân Pháp kéo sang
Chợ Tràng cô Tám cũng gan anh hùng
Dưới trướng cụ Phan Đình Phùng
Bắt quân lính tập vào tròng trăm tên
Lại như vợ lẽ Đội Quyên
Nam trang cải dạng tìm lên núi rừng
Đúc súng đúc đạn, giúp chồng
Đánh cho quân Pháp hãi hùng đảo điên
Bà Ba Đề Thám truân chuyên
Non sông đã trải mấy phen thác ghềnh
Hồng quần nhẹ bước rừng xanh
Trận tiền giáp chiến đao binh vẫy vùng
Hồng nhan nhẹ bước thong dong
Chính bà cũng dự quân trung luận bàn
Bà Lang Seo mở ngôi hàng
Giả đò hương khói đèn nhang bấy chầy
Hà Nội, Nam Định, Sơn Tây
Nghĩa Hưng đảng ấy nay ngày một to
Chuyện năm Canh Ngọ mới vừa
Việt Nam dân đảng bấy giờ lập ra
Chương trình định liệu gần xa
Trước là dân tộc sau ra đại đồng
Cô Giang cũng bực anh hùng
Dốc tâm thề Đảng một lòng trung trinh
Cùng ai thề chữ tử sinh
Chưa chăn gối cũng vẹn tình sắt son
Chia nhau việc Đảng lo tròn
Tài chính cổ động lại còn giao thông
Thất cơ sự đến khi cùng
Tím gan Yên Bái, đau lòng xiết bao
Thế gian mặc chuyện ra vào
Lòng chung xin nguyện trời cao soi cùng
Chàng theo nước, thiếp theo chồng
Tuồng khi dơ dáng sống cùng hôi tanh
Khen chê phó mặc sử xanh
Treo gương “đất nghĩa trời Kinh” đời đời

—o—

AN NAM

Chúa Tàu mở hội bên Ngô
Cớ sao bảo phướn sang chùa An Nam?
Thà rằng chẳng biết cho cam
Biết ra kẻ Bắc người Nam thêm sầu
Cột buồm mà ngỡ cây cau
Thấy thuyền thúng nát ngỡ tàu thằng Ngô
Còn Tàu còn bán vải sô
Tàu về mới biết xi xô bạc tình.
—o—
Bấy lâu ta ở với ta
Bây giờ có Phú Lang Sa lọt vào
Bây giờ đất thấp trời cao
An Nam, Quảng Tống phải vào lụy Tây
Bây giờ khố bẹ đi giày
Bờ lau lên phố, đĩ nay lên bà
Mấy đời khoai sắn nở hoa
Thau rau đắc thế, trẻ già thất kinh
Bấy lâu vua trị một mình
Bây giờ Nhà nước đã rành chia đôi
Văn nhân khoa mục ở rồi
Những phường dốt nát lên ngồi làm quan
Những anh phơ phất loàng xoàng
Làm bồi làm bếp ra ràng cậu chiêu
Các quan trung nghĩa trong triều
Về nhà ngồi xó liệu chiều thủ thân
Những quân vô nghĩa, nịnh thần
Tìm thầy, tìm cách lần lần thăng quan
Trị dân lắm sự tham tàn
Kiếm tiền kiếm bạc mới toan bằng lòng
Muốn cho bể lặng, sông trong
Cách hết lũ ấy mới mong thái bình
—o—

DÂN NAM

Nghĩ xem cái nước Nam mình
Tây sang bảo hộ tài tình đến đâu?
Nghĩ xem tiền của ở đâu
Đưa ra mà bắc được cầu qua sông
Chả hay tiền của của chung
Đưa ra mà bắc qua sông Bồ Đề
Bắc cho thiên hạ đi về
Những cột dây thép khác gì nhện chăng
Tưởng rằng anh Pháp nghĩa nhân
Nào hay lấy của dân Nam làm giàu
Tưởng rằng bảo hộ cho nhau
Nào hay đánh mắng ra màu coi khinh
Cũng giang sơn, cũng triều đình
Thế mà nước mất, dân tình lầm than
Lo sưu, lo thuế đã cam
Nay kinh, mai lính, gian nan mịt mù
Dân thì phải thợ, phải phu
Tỉnh thành đặt chốn lao tù cấm ngăn
Một năm nào biết mấy lần
Nay thuế quốc trái, mai quân quốc phòng
Những quân vui thú nức lòng
Đua nhau ăn bẩn như muông khác gì

—o—

QUÁN NAM

Thùng thùng trống đánh quân sang
Chợ Già trước mặt, quán Nam bên đàng
Qua Chiêng thì rẽ sang Giàng
Qua quán Đông Thổ vào làng Đình Hương
Anh đi theo chúa Tây Sơn
Em về cày cuốc mà thương mẹ già
—o—

TỈNH NAM

Đêm qua lặn lội vượt đồng
Gánh gạo cho chồng, mặc súng nổ vang
Chồng em đánh giặc tỉnh Nam
Thực dân mất vía, Việt gian kinh hồn
Em về nuôi cái cùng con
Cho chồng rong ruổi nước non diệt thù

—o—

NAM BANG

—o—

NAM CHÂN

Nam Chân thất cổ,
Phong tục chân thành.
Giao Thủy lục hoành,
Điền tài phú dụ.

—o—

NAM ĐÀN

Cá rô Bàu Nón kho với nước tương Nam Đàn
Gạo tháng mười cơm mới, đánh tràn không biết no
—o—
Nhút Thanh Chương
Tương Nam Đàn
—o—
Ra đi anh nhớ Nghệ An
Nhớ Thanh Chương ngon nhút, nhớ Nam Đàn thơm tương
—o—

NAM ĐỊNH

Cô kia thắt cái lưng xanh,
Có vô Nam Định với anh thì về.
Nam Định có cây bồ đề,
Có giếng tắm mát cô về nhà chơi.
—o—

NAM GIAO

Trần Hoàn cùng với Bùi San
Hai thằng hợp tác phá đàn Nam Giao

—o—

NAM PHỔ

Nam Phổ trèo cau không mặc váy
La Sơn nhìn thấy La Sơn la
—o—
Con gái Nam Phổ ở lổ trèo cau
—o—

NAM TRUNG

– Nghe anh làu thông lịch sử,
Em xin hỏi thử đất Nam-Trung:
Hỏi ai Gia Định tam hùng,
Mà ai trọn nghĩa thuỷ chung một lòng?
– Ông Tánh, ông Nhân cùng ông Huỳnh Đức,
Ba ông hết sức phò nước một lòng
Nổi danh Gia Định tam hùng
Trọn nghĩa thủy chung có ông Võ Tánh
Tài cao sức mạnh, trọn nghĩa quyên sinh
Bước lên lầu bát giác thiêu mình như không.
—o—

NAM XANG

Nam Xang đồng hẹp, bãi dài
Ăn cơm thì ít, ăn khoai thì nhiều
Ăn thừa lại đổ vào niêu
Lấy vung đậy lại, đến chiều lại ăn

—o—

NAM VANG

—o—

CẨM NAM

Lấy chồng về đất Cẩm Nam
Bắp rang, canh hến, nứt giằng cối xay
—o—

LĨNH NAM

—o—

QUẢNG NAM

Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu Hồng Đào chưa nhấm đà say
Kể từ ngày đó xa đây
Sầu đêm quên ngủ sầu ngày quên ăn
—o—
Quảng Nam vô chánh nhất
—o—
Non cao, biển cả
Con chim tra trả tìm mồi
Khi mô vật đổi sao dời
Đất Quảng Nam hết nước mới hết người tài hoa
—o—

SA NAM

Sa Nam trên chợ dưới đò
Nơi đây Hắc Đế kéo cờ dựng binh

NAM MÔ

Miệng nam mô, bụng bồ dao găm

—o—

Lỗ miệng thì nói Nam mô
Trong lòng thì đựng ba bồ dao găm

—o—

Ngoài miệng thì tụng nam mô
Trong lòng thì đựng cả bồ dao găm

—o—

Muốn ăn đậu phụ tương tàu,
Mài dao đánh kéo gọt đầu đi tu.
Mồm thì tung niệm nam mô,
Miệng thì rượu thịt lu bù sớm hôm.
Một tay gõ mõ, gõ chuông,
Một tay bóp vú cô nường nghe kinh.

—o—

Mài dao, đánh kéo, gọt đầu đi tu
Mồm thì tụng niệm Nam mô
Miệng thì rượu thịt lu bù sớm hôm
Một tay gõ mõ gõ chuông
Một tay với đến cô nường nghe kinh

—o—

Sư đang tụng niệm nam mô
Thấy cô cắp giỏ mò cua bên chùa.
Lòng sư riêng những ngẩn ngơ,
Bỏ kinh, bỏ kệ, tìm cô hỏi chào.
Ai ngờ cô đi đàng nào,
Tay lần tràng hạt ra vào băn khoăn.

—o—

Nam mô một bồ lấy bốn
Người ta đã khốn lại còn nam mô

—o—

Nam mô Bồ Tát
Chẻ lạt đứt tay
Đi cày trâu húc
Đi xúc phải cọc
Đi học thầy đánh
Đi gánh đau vai
Nằm dài chết đói

—o—

Nam mô bồ tát bồ hòn
Ông sư bà vãi cuộn tròn lấy nhau

—o—

Nam mô hai chữ từ bi
Phật còn mê gái huống chi thầy chùa?

—o—

Nam mô A Di Đà Phật
Đổ mật vào nồi, chưa sôi đã nếm

—o—Nam vô đức Phật Di Đà
Cái cuốc bỏ đó, cả nhà đi đâu?
Nam vô đức Phật từ bi
Cán tháo bỏ đi, lưỡi cho vào đãy—o—

Nam vô đức Phật Di-đà,
Bên kia cảnh vắng đôi ta cùng vào.
Nam vô Phật tổ chí cao,
Bên kia cảnh vắng ta vào cùng tu.

—o—

Nam mô dây sắt đo dùng
Một công hai giạ, đìa lung không chừa

—o—

Tiểu tôi tiểu kính, tiểu hiền
Bao nhiêu chùa chiền, tiểu đốt, tiểu đi
Thịt chó tiểu đánh tì tì
Bao nhiêu chỗ lội tiểu thì cắm chông
Nam mô xứ Bắc, xứ Đông
Con gái chưa chồng thì lấy tiểu tôi

—o—

Chuông chùa lóc cóc leng keng
Cho ông sãi chùa quen niệm mô di
Mô di tâm phải mô di
Chớ mô đường này mà mị đường kia

—o—

Mô Phật mô pháp mô tăng
Ông sư bà vãi bẻ măng xào cò

—o—

Con ai đem bỏ chùa này
A di đà Phật, con thầy thầy nuôi

—o—

A Di Đà Phật, chùa chật cho nên
Hai cô nằm ngủ hai bên
Thầy chen vô giữa trùm mền cho vui

—o—

Phen này quyết chí đi tu
Tam quy ngũ giới, tu chùa Hồ Sen
Thấy cô má phấn răng đen
A di đà Phật anh quên mất chùa
Có ai mua mõ thì mua!

Chia sẻ:
Scroll to Top