Cha & Mẹ xứ sở kết hợp :
– Cha xứ sở :
– Mẹ xứ sở :
– Giữa xứ sở cha và mẹ
– Giữa các xứ sở nói chung
CHA TRỜI – MẸ ĐẤT (Trời đất)
Trời đất hương hoa
Người ta cơm rượu
—o—
Ví dầu trời đất phân chia
Đôi ta như khóa với chìa đừng rơi
Dù cho đất đổi trời thay
Trăm năm vẫn giữ lòng ngay với đời
—o—
Cớ sao thấy mặt thì thương
Hay chăng trời đất vấn vương cho mình?
—o—
Trồng hoa hoa héo, trồng cây cây tàn
Làm chẳng nên lại trách trời cao
Đã vụng múa lại chê đất lệch
Đất trời còn đó, em giữ tuyền thủy chung
Em than một tiếng, trời đất xoay vần
Chim trên rừng còn rơi lụy, anh là người trần, sao anh lại không thương?
Tại cha cùng mẹ chớ em nào phụ anh
– Thôi đừng tráo trở giấu quanh
Mắt đà thấy rõ em tham sang giàu
Đất rộng thinh thinh
Ra đi bỏ mẹ sao đành
Công ơn cha mẹ sinh thành ra em
Đất kia rộng vậy thế mà dày sâu
Bể xa mây nước mù mù
Biết mô cửa lạch biết mô sông cùng
Tiếng hò giọng hát ngân vang trên đồng,
Cá tươi gạo trắng nước trong,
Hai mùa lúa chín thơm nồng tình quê
Bao giờ lính mộ sang Tây được về
Vợ con thương nhớ ủ ê
Biết rằng sang đấy có về được không?
Để cho tôi đứng tôi gào hết hơi
Hết hơi chẳng thấy trả lời
Thấy trong trời đất có tôi đứng gào
Ngó xuống đất thấy đất rộng thinh thinh
Phải chi anh hoá đặng hai hình
Đi qua chèo thế, để con bạn mình nghỉ tay
Ngó dưới đất, đất rộng mênh mông
Anh với em gá nghĩa chung tình
Dù ăn cơm quán, ngủ đình cũng ưng.
Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông
Thương em xóm Thủ chưa chồng
Anh muốn vô làm rể, biết em bằng lòng hay không?
Ngó xuống đất, đất rộng thênh thang
Thương em nhưng sợ lỡ làng
Nhà cao cửa rộng, em đâu màng tới anh
Công danh phú quý còn dành cho ta
Có công mài sắt, diệt tà
Gặp thời lộc sẽ vào ra dồi dào
Công của cũng chẳng là bao
Ra tay tháo vát, thế nào cũng nên
—o—
CHA TRỜI, MẸ BỂ (Trời – Bể)
—o—
Trời cao muôn trượng, cánh chim hồng cao bay.
Kể công cha mẹ, biết cơ ngần nào
Dạy rằng chín chữ cù lao
Bể sâu không ví, trời cao không bì
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề.
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm.
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng.
Ngó xuống biển biển rộng thinh thinh
Ngó ra ngoài dạ buồn tình
Đêm nằm nước mắt nhỏ như bình trà nghiêng
Đêm nằm nước mắt triền miên
Áo em năm vạt ướt liền cả năm
Ngó xuống biển, biển rộng chơi vơi
Rạng ngày mai mỗi đứa một nơi
Bưng chén cơm lên để xuống, không vơi hạt nào
Đêm nằm mộng mị chiêm bao
Tiếc vườn hồng én liệng, để vườn đào quạnh hiu
Ngó lên trên trời, trời cao trăm trượng,
Ngó xuống dưới biển, sóng lượn ba đào;
Mấy lâu ni lòng những ước ao,
Viếng thăm không đặng, gởi thơ vào đã thấu chưa?
—o—
CHA MẸ THIÊN ĐỊA
Thiên la địa võng
—o—
Thiên thời, địa lợi
—0—
Thiên khai, địa tịch
—o—
Khai thiên, lập địa
—o—
Thiên địa hữu tình vô nhân bạc.
—o—
Của thiên trả địa
—o—
Thiên tràng địa cửu
—o—
Láo thiên láo địa,
—o—
Thiên minh minh, địa minh minh
Có con không gả cho mình
Mai sau trồng bí mình rình dứt dây
—o—
Chiếc chiếu treo là ngãi
Chiếc chiếu trải là tình
Thiên minh minh, địa cũng minh minh
Họ xa kệ họ, hai đứa mình đừng xa
—o—
Thuở tạo thiên lập địa, ông trời do ai sanh?
– Nghe em hỏi tức, anh trả lời phức cho rồi
Thuở tạo thiên lập địa, hai đứa mình chưa sanh!
Dại thế gian làm quan thiên đàng
Con ngựa nhà trời ăn cỏ chỉ thiên
Phận em là gái thuyền quyên
Ai mà đối đặng, kết nguyền phu thê
CHA MẸ THIÊN ĐỊA HÀ
—o—
Địa sinh thảo hà thảo vô căn
Trời sinh người đều có lộc trời
Đất thì sinh cỏ rễ chồi nào không
Đợi bước tới cùng
Chiều về trời đất mông lung
Phải duyên thì xích lại cho đỡ não nùng tuyết sương.
Đất kia rộng vậy thế mà dày sâu
Bể xa mây nước mù mù
Biết mô cửa lạch biết mô sông cùng
Chắc là nước bể nước mưa đầy trời
Ai ơi nên nhớ lấy lời
Trông cơ trời đất, liệu thời làm ăn.
Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông,
Cá lòng tong ẩn bóng ăn rong,
Anh đi Lục Tỉnh giáp vòng,
Đến đây xui khiến đem lòng thương em.
Chữ địa là đất, đất rộng mênh mông
Chữ hà là sông, sông dài lai láng
Em hỏi anh rày quê quán ở đâu?
– Chữ thiên là trời, trời cao lồng lộng.
Chữ địa là đất, đất rộng thinh thinh
Nói ra sợ bạn buồn tình
Đêm nằm lụy nhỏ như bình nước nghiêng
NGÂN HÀ, SÔNG NGÂN, SÔNG HÀ, SÔNG NGÂU
Cầu Ô Thước trăm năm giữ vẹn
Sông Ngân Hà mãi mãi không phai
Sợ em ham chốn tiền tài
Dứt đường nhân nghĩa lâu dài bỏ anh
—o—
Qua cầu xem bắc ngó đông
Nghe ai than khóc dưới sông Ngân Hà
Quớ người quân tử cứu ta
Mai sau giàu có thưởng ba lạng vàng
—o—
Trai năm thê bảy thiếp
Gái chính chuyên ba mươi sáu thằng chồng
Mười thằng đem nhận biển Đông
Mười thằng đem đổ xuống sông Ngân Hà
Mười lăm thằng đem bỏ ngã ba
Một thằng kết nghĩa giao hòa ngàn năm.
—o—
Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá: cá lặn; trông sao: sao mờ.
Buồn trông con nhện chăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao Mai,
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?
Đêm đêm tưởng giải Ngân Hà,
Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,
Tào Khê nước chảy hãy còn trơ trơ.
—o—
Trai thương vợ cũ, gái sầu chồng xưa
Đất năng lở năng bồi,
Tình ta thương quân tử cựu,
Không lẽ đi mời quân tử tân,
Thôi em liều mình thác xuống sông Ngân,
Thác đi lại bỏ ái ân hai chàng.
– Ới em ơi, muốn cho đặng cả hai bên
Em về đan tám bức phên, dựng tường buồng
Dựng buồng thì phải dựng luôn,
Đừng ngăn quân tử cựu, đừng buồn quân tử tân
Tội gì em thác xuống sông Ngân
Thác đi lại bỏ ái ân hai chàng.
Cảm thương người bạn buổi đầu thâm ân
Kể từ qua lại mấy lần,
Nào ai khỏa lấp sông Ngân, suối Vàng.
Gẫm trong kim cổ kì quan,
Bướm vô vườn liễu, hoa tàn vì ai?
Nhìn xem nguyệt xế non Đoài,
Bóng trăng mờ lợt không ai nương cùng.
Xưa rày nhân nghĩa bập bùng,
Xuống lên không đặng tỏ cùng anh hay.
Mưu kia, kế nọ ai bày,
Làm cho chàng thiếp mỗi ngày mỗi xa.
– Ở đâu năm cửa, nàng ơi?
Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng ?
Sông nào bên đục bên trong?
Núi nào thắt cổ bồng mà có thánh sinh?
Đền nào thiêng nhất tỉnh Thanh?
Ở đâu lại có cái thành tiên xây?
Ở đâu là chín từng mây?
Ở đâu lắm nước, ở đâu nhiều vàng?
Chùa nào mà lại có hang?
Ở đâu lắm gỗ thời nàng biết không?
Ai mà xin lấy túi đồng?
Ở đâu lại có con sông Ngân Hà?
Nước nào dệt gấm thêu hoa?
Ai mà sinh cửa, sinh nhà, nàng ơi?
Kìa ai đội đá vá trời?
Kìa ai trị thủy cho đời được yên?
Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời
Xin em giảng rõ từng nơi từng người.
– Thành Hà Nội năm cửa, chàng ơi
Sông Lục Đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng
Nước sông Thương bên đục bên trong
Núi đức thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh
Đền Sòng thiêng nhất tỉnh Thanh
Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây
Trên trời có chín từng mây
Dưới sông lắm nước, núi nay lắm vàng
Chùa Hương Tích mà lại ở hang
Trên rừng lắm gỗ thời chàng biết không
Ông Nguyễn Minh Không xin được túi đồng
Trên trời lại có con sông Ngân Hà
Nước Tàu dệt gấm thêu hoa
Ông Hữu Sào sinh ra cửa, ra nhà, chàng ơi
Bà Nữ Oa đội đá vá trời
Vua Đại Vũ trị thủy cho đời yên vui
Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời
Em xin giảng rõ từng nơi từng người.
Ai lên cho tới cung trăng,
Nhắn con vịt nước đừng ăn cá trời
Hỡi con vịt nước kia ơi
Sao mày vùng vẫy ở nơi sông Hà
Hỏi thăm chú lái, nào chồng em đâu
Chồng em lên ngọn sông Ngâu
Buôn chè mạn hảo, năm sau mới về
Ba con sông ấy đổ vào sông Thương
Con sông sâu nước dọc đò ngang
Mình về bên ấy ta sang bên này
Đương con nước lớn đò đầy…
Năm ngoái lên ngọn sông Ngâu
Dầm sương dãi nắng chẳng tìm đâu bằng nàng
Năm nay anh về, lắm bạc nhiều vàng
Ðể anh sắm sửa thời nàng lấy anh
Lấy anh, anh sắm sửa cho
Sắm ăn, sắm mặc, sắm cho chơi bời
Khuyên em có bấy nhiêu lời
Thủy chung như nhất là người phải nghe
Mùa đông lụa lụa the the
Mùa hè bán bạc hoa xòe sắm khăn
Sắm gối thì phải sắm chăn
Sắm gương, sắm lược, sắm ngăn đựng trầu
Sắm cho em đôi lược chải đầu
Cái ống đựng sáp, vuốt đầu cho xinh
ÔNG TRĂNG BÀ TRỜI
—o—
Ông Trăng mà lấy bà Trời
Tháng năm đi cưới, tháng mười nộp cheo
Sỏ lợn lớn hơn sỏ mèo
Làng ăn chẳng hết đem treo cột đình
Ông xã đánh trống thình thình
Quan viên mũ áo ra đình ăn cheo
ÔNG TRĂNG BÀ SAO
Ông Giăng mà lấy bà Sao
Đến mai có cưới cho tao miếng giầu
ÔNG TƠ, BÀ TƠ
—o—
Trách ông Tơ sao xe hoài xe hủy
Trách bà Tơ sao xe chỉ lộn vòng
Chỗ em không ưng thì bà muốn
Chỗ em bằng lòng thì bà lại xe rơi
ÔNG TƠ, BÀ NGUYỆT,
—o—
Yêu nhau lấy quách nhau đi
Ông Tơ bà Nguyệt làm chi thì làm
—O—
Anh về sao được mà về
Dây giăng tứ phía tính bề gặp anh
– Dây giăng mặc kệ đây giăng
Ông Tơ bà Nguyệt đón ngăn cũng về
—o—
Em không trách ông Tơ
Không phiền bà Nguyệt
Trách phận mình sao thiệt long đong
—o—
Gái này chẳng phải vừa đâu
Gái vỗ vai bà Nguyệt, gái câu ông Tơ hồng
Gái này tát bể tìm chồng
Lật núi tìm bạn, nghiêng đồng tìm con
—o—
Ông Tơ đành vấn Bà Nguyệt đành vương
Phụ mẫu đành gả, hỏi nàng thương không nàng?
—o—
ÔNG NGUYỆT LÃO, BÀ TƠ (BÀ XE DÂY)
—o—
Ngồi buồn xe chỉ cột trâu
Xe xong sợi chỉ thì trâu đã già
Ngồi buồn trách mẹ, trách cha
Trách ông Nguyệt lão, trách bà xe dây
—o—
ÔNG THIÊN LA, BÀ ĐỊA VÕNG
—o—
Thiên la, Địa võng
—o—
Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu
Lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt.
—o—
– Chữ rằng “Thiên võng khôi khôi
Sơ nhi bất lậu” lưới trời bủa giăng
Xa xôi chưa kịp nói năng
Từ qua đến bậu như trăng xế chiều
Thân em như tấm lụa điều
Phất phơ trước chợ nhiều điều đáng thương
Dốc lòng trồng cửu lý hương
Ba năm hai lá, người thương giã đầu …
ÔNG THIÊN LÔI, BÀ LA SÁT
—o—
Ước gì anh lấy được nàng
Để anh thu xếp họ hàng đón dâu
Ông sấm ông sét đi đầu
Thiên Lôi, La Sát đứng hầu hai bên
Cầu vồng, mống cái bày lên
Hai họ ăn uống, có tiên ngồi kề
Trăng vàng sao bạc bốn bề
Kỳ lân, sư tử đưa về tận nơi
Sắm xe sắm ngựa nàng chơi
Ngựa thời bằng gió, xe thời bằng mây
Nàng thời má đỏ hây hây
Ước gì anh được đón ngay nàng về
—o—
Chú Cuội – Chị Hằng – Cây đa
THẰNG CUỘI
Thằng Cuội ngồi gốc cây đa
Để trâu ăn lúa, gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên
Ông thời cầm bút cầm nghiên
Ông thời cầm tiền đi chuộc lá đa
Thằng Cuội chết tối hôm qua
Đánh trống, đánh phách đưa ma ra đồng
—o—
Thằng Cuội ngồi mát trong trăng
Ma bắt thằng Cuội nhăn răng méo mồm
—o—
Thằng Cuội ngồi gốc cây đa
Ăn cơm với cá, thèm cà với dưa
—o—
Thằng Cuội đứng giữa cung trăng
Cầm rìu cầm rựa đốn săng, kiền kiền
—o—
Thằng Cuội ngồi gốc cây đa
Thò chân xuống giếng được ba đồng tiền
Một đồng mua trống mua kèn
Một đồng mua mỡ đốt đèn thờ vua
Một đồng mua bó rau khoai
Thái ra cho nhỏ, thờ hai ông bà
CHỊ HẰNG
Chiều chiều dạo mát dưới trăng
Trông lên chỉ thấy chị Hằng ở trong.
—o—
Cách nhau vì bởi xích thằng
Xa nhau vì bởi chị Hằng khiến xa
—o—
Đêm qua ngồi tựa song đào
Thấy người tri kỉ ra vào vấn vương
Năm canh gió lạnh đêm trường
Nửa chăn, nửa chiếu, nửa giường đợi ai
Tay em ngắt nhụy bông nhài
Tay giơ đón gió, tay chòi ghẹo trăng
Rủi may bởi tại chị Hằng
ÔNG TRỜI
—o—
Để hai con mắt coi người thế gian
Những tiền cho gái có đòi được không?
Em xin một tấm, ông thời nghĩ sao?
Không cho bên Tấn bên Tần gặp nhau
Chị em giúp của, ông trời định đôi.
Canh ba tôi nói sáng, giữa trưa tôi nói chiều
Bụt kia có mắt, ông trời có tai
Anh khôn ngoan cũng ở dưới ông Trời
Em là con én đổi dời thượng thiên
—o—
Ông già ông đội nón cời
Ông ve con nít ông Trời đánh ông
—o—
Phải chi lên được ông trời
Mượn gươm ông Sấm giết người bạc ân
Hễ ai đánh nó thì trời đánh cho
Con cóc là cậu thầy nho
Hễ ai nuôi nó trời cho quan tiền
Làm dâu người khác chẳng trông cậy gì
Cầu trời sinh được nam nhi
Sau này nói dõi tông chi họ hàng
Trời cười, Trời mắng: rõ gàn
Nữ nhi không có sinh nam thế nào
Sao không suy nghĩ thấp cao
Nhà ngươi xưa ở chỗ nào chui ra
Lăn qua trở lại thấy mấy lời em than
Đứng giữa trời anh chẳng dám nói gian
Vắng em một bữa, ruột gan rã rời
Của chàng cho thiếp liệu đòi được chăng?
Bắc thang lên hỏi ông trăng
Của chàng cho thiếp nói năng thế nào?
Nếu Trời không có, có mình làm sao?
Con chim nó hót trên cao
Nếu Trời không có, làm sao có mình?
Vậy anh có biết ông trời họ chi?
– Em ghé tai xuống đất, kêu đất nó ơi
Rồi anh sẽ nói họ ông trời cho em nghe
Thuở tạo thiên lập địa, ông trời do ai sanh?
– Nghe em hỏi tức, anh trả lời phức cho rồi
Thuở tạo thiên lập địa, hai đứa mình chưa sanh!
Đi đâu mà chẳng lấy chồng
Người ta lấy hết chổng mông mà gào
Gào rằng: đất hỡi trời cao
Sao không thí bỏ cho tôi chút chồng
Ông Trời ngoảnh lại mà trông:
Mày hay kén chọn ông không cho mày!
Ông tơ biểu buộc, ông trời biểu không,
Gặp ông tơ hỏi sơ cho biết,
Gặp bà nguyệt hỏi thiệt cho rành,
Vì đâu hoa nọ lìa cành,
Nợ duyên sớm dứt, cho đành dạ em.
Hỏi xem duyên kiếp nợ nần làm sao
Tím gan thay khách má đào
Mông mênh bể Sở dễ vào khó ra
Hươu kia trót mắc phải chà
Khi vào thì dễ, khi ra hiểm nghèo
Tôi đơm năm bát đợi người đằng xa
Năm trống canh tôi ngủ có ba
Còn hai canh nữa tôi ra trông trời
Trách ông trời sớm dựng đông
Chả khuya chút nữa cho lòng thở than
Thở than chưa kịp hết lời
Bỗng đâu trống giục ba hồi tan canh
Sao em chưa có, đứng ngồi vân vi?
– Ôi thầy mẹ ơi, cấm đoán con chi!
Mười lăm mười tám, sao chẳng cho đi lấy chồng?
Ôi ông trời ơi, ông ở bất công,
Người ta có cả, sao tôi không có gì?
Một mai quá lứa, nhỡ thì,
Tuổi già kéo đến còn gì là xuân!
Đêm nằm vuốt bụng khấn thầm,
Xin ông thí bỏ một chồng cho xong.
Rồi tôi sẽ tạ ơn ông,
Con bò to béo, cho xứng với anh chồng béo to!
ÔNG TRỜI XANH, ÔNG CAO XANH, ÔNG TRỜI CAO
—o—
ÔNG TRỜI CAO
—o—
Trời cao có mắt
—o—
Đố ai đếm được lá rừng
Đố ai đếm được mấy từng trời cao
Đố ai đếm được vì sao
Đố ai đếm được công lao Mẹ, Thầy
—o—
Ngó xuống bụi cỏ, giọt nhỏ sương sa
Nào ai phân rẽ đôi ta?
Thiếp một đường chàng một nẻo, kêu ca không thấu trời
—o—
Phát gai góc muốn thông đàng cả,
Vén ngút mây thấy quả trời cao,
Hiểm nguy là chốn Động đào,
Phải duyên chàng Ngư phủ còn vào được thay.
ÔNG TRỜI XANH
—o—
Giai ngẫu tự nhiên thành,
Lời nguyền chứng có ông trời xanh,
Khiến sao nghe vậy, nên anh không phiền.
Dầu mà phên đất tấm ngả, tấm nghiêng,
Lời thề giữ trọn không quên nhân nghĩa nghèo,
Chàng đành thì cha mẹ phải đành theo,
Như chiếc tàu kia đang chạy, bỏ dây neo phải dừng.
ÔNG CAO XANH
—o—
—o—
ÔNG THƯỢNG ĐẾ, ÔNG ĐẾ THÍCH, ÔNG ĐẾ THÍCH THIÊN
—o—
THƯỢNG ĐẾ
—o—
Bốn cột tứ trụ
Người ngự lên trên
Gươm bạc hai bên
Chầu vua thượng đế
Cái bụng chình ình là Trư Bát Giới
Cái mặt phơi phới là quỷ Sa Tăng
Cái mặt lăng nhăng là Đường Tam Tạng
Cái mặt liều mạng là Tôn Ngộ Không
Cái mặt có lông là Tam Thái Tử
Cái mặt hung dữ là Hồng Hài Nhi
Ai cầm cái li là Quan Âm Bồ Tát
Ai cầm cái bát là Phật Tổ Như Lai
Ai mà hay sai là Ngọc Hoàng Thượng Đế
ÔNG NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ, ÔNG NGỌC HOÀNG, ÔNG HOÀNG ĐẾ, ÔNG NGỌC ĐẾ
—o—
ÔNG NGỌC HOÀNG
—o—
Đầu anh đội lá đơn vàng
Ba năm anh chẳng nói được nàng
Rồi đây anh kiện tới ông Ngọc Hoàng cho coi!
Kiện thấu Ngọc Hoàng, trời chửa cho mưa
Mấy người uống rượu là con Ngọc Hoàng
Ngọc Hoàng ngồi tựa ngai vàng
Thấy con uống rượu hai hàng lệ rơi
Tưởng rằng con uống con chơi
Ai dè con uống con rơi xuống sình!
Khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào
Khói lên đến tận thiên tào
Ngọc Hoàng phán hỏi: Đứa nào đốt rơm?
Đi xuống hạ giới cùng người rước dâu
Ngọc Hoàng cũng phải xuống chầu
Thiên Lôi, Thủy Tế đứng hầu đôi bên
Cầu vòng, mống cụt kéo lên
Xe mây ngũ sắc đưa viền tận nơi.
Chó cắn gà
Gà ăn mối
Mối ăn đa
Đa ngã trúng lưng nai
Nai sợ hãi nhảy cùng rừng
Châu chấu giật mình
Đá bể trứng chiền chiện
Chiền chiện đi kiện Ngọc Hoàng
Cái bụng chình ình là Trư Bát Giới
Cái mặt phơi phới là quỷ Sa Tăng
Cái mặt lăng nhăng là Đường Tam Tạng
Cái mặt liều mạng là Tôn Ngộ Không
Cái mặt có lông là Tam Thái Tử
Cái mặt hung dữ là Hồng Hài Nhi
Ai cầm cái li là Quan Âm Bồ Tát
Ai cầm cái bát là Phật Tổ Như Lai
Ai mà hay sai là Ngọc Hoàng Thượng Đế
Nghe vè tôi nghèo
Nghèo tanh, nghèo hôi
Nghèo lồi mắt cá
Nghèo sạt xương hông
Nghèo không gạo nấu
Nghèo thấu Ngọc Hoàng
Nghèo tàn, nghèo mạt
Nghèo khạc ra tro
Nghèo ho ra máu
Nghèo lủi vô bờ
Nghèo lờ con mắt
Nghèo thắt ống chân
Nghèo sưng cần cổ
Nghèo lỗ máu đầu
Nghèo cực như trâu
Một xâu, hai thuế
ÔNG HOÀNG ĐẾ
—o—
Phải chi lên được trên trời
Mượn gươm Hoàng Đế giết người bạc ân
—o—
THIÊN ĐÌNH
Hôm qua anh đi chợ trời
Thấy ông Nguyệt Lão đang ngồi ở trên
Tay thì cầm bút cầm nghiên
Tay cầm tờ giấy đang biên rành rành
Biên ta rồi lại biên mình
Biên đây lấy đấy, biên mình lấy ta
Chẳng tin lên hỏi trăng già
Trăng già cũng bảo rằng ta lấy mình
Chẳng tin lên hỏi thiên đình
Thiên đình cũng bảo rằng mình lấy ta
Quyết liều một trận phong ba
Để cho thiên hạ người ta trông vào
Quyết liều một trận mưa rào
Để cho thiên hạ trông vào đôi ta
ÔNG TẢN VIÊN
Ngày ngày ăn bát cơm rang
Ăn con tép mại dạ càng long đong
Chim sầu cất cánh bay rông
Em nhớ nhân ngãi dốc lòng ra đi
Chàng đừng trách em ăn ở bất nghì
Cha cầm mẹ giữ chẳng đi được nào
Chàng đi vực thẳm non cao
Em mong tìm vào đến núi Tản Viên
Bao giờ lở núi Tản Viên
Cạn sông Tô Lịch thiếp mới quên lời chàng
ÔNG DIÊM VƯƠNG (ở Diêm Đình, Diêm La, Diêm Phủ)
—o—
Trai ở bạc lấy vôi mà tạc
Gái ở bạc lấy đá mà ghi
Nào ai ăn ở điều chi
Dưới có Diêm vương thập điện, trên có Thiên tri quỷ thần
—o—
Cha mẹ thì ở Diêm vương,
Sinh con lại ở Tây phương Phật đài
—o—
Anh đau tương tư nằm trên bộ vạc
Hồn anh thất lạc, thác xuống Diêm đình
Diêm Vương ổng hỏi sự tình,
Tui lụy vì tình, tui mới thác oan.
—o—
Anh đau tương tư nằm trên bộ vạc
Hồn anh thất lạc xuống dưới Diêm đình
Ông vua phán quở: Anh vì tình thác oan
Em ơi, một mai anh chết, em đừng có đến để tang
Bởi tại nơi em mà thiên hạ luận bàn.
—o—
Thương thay, hỡi các chú ơi
Ăn uống đã rồi thầy kể một văn:
Quý Tỵ giữa ngày mồng năm,
Giờ Dần chính nguyệt ầm ầm huyên hoa
Một chi đánh ở Đống Đa
Cầu Duệ kéo đến tốt xa muôn phần
Phép voi bại trận tiên phong
Cầu nhương sụt cả xuống sông Bồ Đề
Đao binh tử trận đầy khe
Dọc đường gài gác nằm kề năn năn
Chú sang cứu viện nước Nam
Chẳng may gặp phải suối vàng thương thay
Chú thì thắt cổ trên cây
Chú thì tự vẫn ở nay trong nhà
Chú thì thác xuống Diêm La
Chú nào còn sống về nhà đại minh
—o—
THIÊN LÔI, THIÊN LA
—o—
THIÊN LA
—o—
THIÊN LÔI
—o—
Con gái mím môi, Thiên Lôi rơi búa
—o—
Bán trời không mời Thiên Lôi
—o—
Cóc mà không cắn thì thôi
Hễ cóc đã cắn Thiên Lôi cũng chờn
—o—
Ước gì anh lấy được nàng
Để anh thu xếp họ hàng đón dâu
Ông sấm ông sét đi đầu
Thiên Lôi, La Sát đứng hầu hai bên
Cầu vồng, mống cái bày lên
Hai họ ăn uống, có tiên ngồi kề
Trăng vàng sao bạc bốn bề
Kỳ lân, sư tử đưa về tận nơi
Sắm xe sắm ngựa nàng chơi
Ngựa thời bằng gió, xe thời bằng mây
Nàng thời má đỏ hây hây
Ước gì anh được đón ngay nàng về
—o—
Cưới em ba họ nhà Trời
Đi xuống hạ giới cùng người rước dâu
Ngọc Hoàng cũng phải xuống chầu
Thiên Lôi, Thủy Tế đứng hầu đôi bên
Cầu vòng, mống cụt kéo lên
Xe mây ngũ sắc đưa viền tận nơi.
—o—
Em là con gái làng Keo
Em ra thách cưới, thách cheo với chàng
Xin chàng chín chiếc tàu sang
Mỗi tàu hai chiếc xà lan đi kèm
Tàu thì gạo trắng, gân bò
Tàu thì rượu nếp với vò rượu tăm
Lá đa hái giữa đêm rằm
Răng nanh thằng Cuội, râu cằm Thiên Lôi
Gan ruồi, mỡ muỗi cho tươi
Lại thêm chín chục con dơi góa chồng.
THUỶ TỀ, LONG VƯƠNG
—o—
THUỶ TỀ, THUỶ TẾ
—o—
Cưới em ba họ nhà Trời
Đi xuống hạ giới cùng người rước dâu
Ngọc Hoàng cũng phải xuống chầu
Thiên Lôi, Thủy Tế đứng hầu đôi bên
Cầu vòng, mống cụt kéo lên
Xe mây ngũ sắc đưa viền tận nơi.
—o—
Nhất phá sơn lâm, nhì đâm Hà Bá.
ÔNG TRĂNG, ÔNG NGUYỆT, ÔNG TƠ
—o—
ÔNG TRĂNG
—o—
Hỏi rằng chị Nguyệt đã chừng mấy con
Mà chàng với thiếp hãy còn long đong
Đốt chùa không tội bằng cướp duyên người lẻ đôi
Những người hạ giới là người như tiên
Ông trời mà bảo ông trăng
Những người hạ giới mặt nhăn như tườu
Những người hạ giới là người như tiên
Ông trời mà bảo ông trăng
Những người hạ giới mặt nhăn như tườu
Của chàng cho thiếp liệu đòi được chăng?
Bắc thang lên hỏi ông trăng
Của chàng cho thiếp nói năng thế nào?
Con dao lá trúc đặt kề tóc mai
Bây giờ anh đã nghe ai
Con dao lá trúc, tóc mai thẹn thùng
Bây giờ không vẫn hoàn không
Giấm thanh đổ biển mấy thùng cho chua
Nói ra thiên hạ hồ đồ
Tiếng tăm em chịu bao giờ cho vơi
Nói ra em chỉ thẹn lời
Kìa ông trăng sáng soi đôi cau vàng
Tháng năm đi cưới, tháng mười nộp cheo
Sỏ lợn lớn hơn sỏ mèo
Làng ăn chẳng hết đem treo cột đình
Ông xã đánh trống thình thình
Quan viên mũ áo ra đình ăn cheo
Ông giẳng ông giăng
Ông giằng búi tóc,
Ông khóc ông cười,
Mười ông một cỗ,
Đánh nhau lỗ đầu,
Đi cầu nhà huyện,
Đi kiện nhà quan,
Đi bàn nhà phủ,
Một lũ ông già,
Mười ba ông điếc,
Con hiệc hai chân,
Đưa giăng về giời.
—o—
Ông trẳng ông trăng
Xuống chơi với tôi,
Có bầu có bạn,
Có bát cơm xôi,
Có nồi cơm nếp,
Có nệp bánh chưng,
Có lưng hũ rượu,
Có khướu đánh đu,
Thằng cu vỗ chài,
Bắt trai bỏ giỏ,
Cái đỏ ẵm em,
Đi xem đánh cá,
Có rá vo gạo,
Có gáo múc nước,
Có lược chải đầu,
Có trâu cày ruộng,
Có muống thả ao,
Ông sao trên trời.
—o—
Ông trẳng, ông trăng
Xuống chơi với Bụt
Ông Bụt cho chùa
Chơi với ông vua
Ông vua cho lính
Xuống chơi ông chánh
Ông chánh cho mõ
Xuống chơi nồi chõ
Nồi chõ cho vung
Xuống chơi cây sung
Cây sung cho nhựa
Xuống chơi con ngựa
Con ngựa cho gan
Xuống chơi bà quan
Bà quan cho bạc
Xuống chơi thợ giác
Thợ giác cho bầu
Xuống chơi cần câu
Cần câu cho lưỡi
Xuống chơi cây bưởi
Cây bưởi cho hoa
Xuống chơi vườn cà
Vườn cà cho trái
Xuống chơi con gái
Con gái cho chồng
Xuống chơi đàn ông
Đàn ông cho vợ
Xuống chơi kẻ chợ
Kẻ chợ cho voi
Xuống chơi cây sòi
Cây sòi cho lá
Xuống chơi con cá
Con cá cho vây
Xuống chơi ông thầy
Ông thầy cho sách
Xuống chơi thợ ngạch
Thợ ngạch cho dao
Xuống chơi thợ rào
Thợ rào cho búa
Trả búa thợ rào
Trả dao thợ ngạch
Trả sách ông thầy
Trả vây con cá
Trả lá cây sòi
Trả voi kẻ chợ
Trả vợ đàn ông
Trả chồng cô gái
Trả trái cây cà
Trả hoa cây bưởi
Trả lưỡi cần câu
Trả bầu thợ giác
Trả bạc bà quan
Trả gan con ngựa
Trả nhựa cây sung
Trả vung nồi chõ
Trả mõ ông chánh
Trả lính ông vua
Trả chùa ông bụt
Đâm thụt lên trời.
—o—
Ông trăng khuyết, ông trăng lại tròn
Gái tơ quá lứa, mất giòn, không xinh
Vẳng tai nghe lời nói hữu tình
Chim lồng không lẽ cất mình bay cao
Gớm ghê thay cái số huê đào
Cởi ra thời khó, buộc vào như chơi
Chàng Thúc sinh quen thói bốc trời
Trăm nghìn đổ một trận cười như không
Chường vô chăn gối loan phòng
Thiếp tôi ra tựa cái bóng đèn chong đêm dài
Vả thiếp tôi nay phận gái nữ hài
Thấy chàng quân tử tài trai anh hùng
Gương bạch Nhật sánh với quạt thanh phong
Sao chàng chẳng tới cái tiết mùa đông lạnh lùng
Chường nằm đâu nhủ thiếp tôi cùng.
—o—
Hôm qua anh đi chợ trời
Thấy ông Nguyệt Lão đang ngồi ở trên
Tay thì cầm bút cầm nghiên
Tay cầm tờ giấy đang biên rành rành
Biên ta rồi lại biên mình
Biên đây lấy đấy, biên mình lấy ta
Chẳng tin lên hỏi trăng già
Trăng già cũng bảo rằng ta lấy mình
Chẳng tin lên hỏi thiên đình
Thiên đình cũng bảo rằng mình lấy ta
Quyết liều một trận phong ba
Để cho thiên hạ người ta trông vào
Quyết liều một trận mưa rào
Để cho thiên hạ trông vào đôi ta
ÔNG GIĂNG
Ông giẳng ông giăng
Ông giằng búi tóc
Ông khóc ông cười
Mười ông một cỗ
Đánh nhau lỗ đầu
Đi cầu hàng huyện
Đi kiện hàng phủ
Một lũ ông già
Mười ba ông điếc
—O—
Ông giẳng ông giăng
Ông giằng búi tóc,
Ông khóc ông cười,
Mười ông một cỗ,
Đánh nhau lỗ đầu,
Đi cầu nhà huyện,
Đi kiện nhà quan,
Đi bàn nhà phủ,
Một lũ ông già,
Mười ba ông điếc,
Con hiệc hai chân,
Đưa giăng về giời.
—O—
Ông giẳng ông giăng
Xuống chơi với tôi
Có bầu có bạn
Có ván cơm xôi
Có nồi cơm nếp
Có nẹp bánh chưng
Có lưng hũ rượu
Có chiếu bám đu
Thằng cu xí xóa
Bắt trai bỏ giỏ
Cái đỏ ẵm em
Đi xem đánh cá
Có rá vo gạo
Có gáo múc nước
Có lược chải đầu
Có trâu cày ruộng
Có muống thả ao
Có sao trên trời
—O—
Ông giẳng ông giăng
Ông giằng búi tóc
Ông khóc ông cười
Ông lười đi trâu
Mẹ ông đánh đau
Ông ngồi ông khóc
Ông phóc xuống đây
Dung dăng dung dẻ.
ÔNG NGUYỆT
—o—
Bắt ông Nguyệt lão hỏi thăm vài lời
Nỡ lòng trêu ghẹo chi tôi
Lênh đênh bèo nổi mây trôi một thì
Biết người biết mặt nhau chi
Để đêm em tưởng ngày thì em mơ
Bắc Ninh cho đến Phủ Từ
Qua cầu sông Nhị ngẩn ngơ tìm người
Tìm người chẳng biết mấy nơi
Tìm ba mươi sáu phố thấy người ở đây.
ÔNG TƠ
—o—
Ai xinh thì mặc ai xinh
Ông Tơ chỉ quyết xe mình với ta
—o—
Quyết lên trời, kiện đến ông Tơ
Nơi thương không vấn, vấn vơ nơi nào?
—o—
Đưa em về tới bờ bưng
Dứt tình trở lại, dậm chân than dài
Lần theo vực hẳm bãi lài
Gá duyên không đặng, giận hoài ông tơ
—o—
BÀ CHÚA XỨ
—o—
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ kinh Vĩnh Tế, vía Bà núi Sam
—o—
BÀ TRỜI (đối xứng với ông Trăng)
—o—
Ông Trăng mà lấy bà Trời
Tháng năm đi cưới, tháng mười nộp cheo
Sỏ lợn lớn hơn sỏ mèo
Làng ăn chẳng hết đem treo cột đình
Ông xã đánh trống thình thình
Quan viên mũ áo ra đình ăn cheo
—o—
BÀ LA SÁT (đối xứng với ông Thiên La)
—o—
Khi nào lửa bén mái tranh
Tư tờ vô bộ tên anh đứng đầu
– Anh về rạch gió lên mây
Theo ông Đại Thánh, theo thầy Đường Tăng
– Em về làm bạn với tiên
Cùng bà La Sát bắt liền không tha
—o—
Ước gì anh lấy được nàng
Để anh thu xếp họ hàng đón dâu
Ông sấm ông sét đi đầu
Thiên Lôi, La Sát đứng hầu hai bên
Cầu vồng, mống cái bày lên
Hai họ ăn uống, có tiên ngồi kề
Trăng vàng sao bạc bốn bề
Kỳ lân, sư tử đưa về tận nơi
Sắm xe sắm ngựa nàng chơi
Ngựa thời bằng gió, xe thời bằng mây
Nàng thời má đỏ hây hây
Ước gì anh được đón ngay nàng về
—o—
BÀ THIÊN LÔI (đối xứng với ông Thiên Lôi)
—o—
Ở đâu mà chẳng biết ta?
Ta con ông Sấm, cháu bà Thiên Lôi
Xưa kia ta ở trên trời
Đứt dây rớt xuống làm người trần gian
—o—
NỮ OA
—o—
Nữ Oa đội đá vá trời
—o—
– Ở đâu năm cửa, nàng ơi?
Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng ?
Sông nào bên đục bên trong?
Núi nào thắt cổ bồng mà có thánh sinh?
Đền nào thiêng nhất tỉnh Thanh?
Ở đâu lại có cái thành tiên xây?
Ở đâu là chín từng mây?
Ở đâu lắm nước, ở đâu nhiều vàng?
Chùa nào mà lại có hang?
Ở đâu lắm gỗ thời nàng biết không?
Ai mà xin lấy túi đồng?
Ở đâu lại có con sông Ngân Hà?
Nước nào dệt gấm thêu hoa?
Ai mà sinh cửa, sinh nhà, nàng ơi?
Kìa ai đội đá vá trời?
Kìa ai trị thủy cho đời được yên?
Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời
Xin em giảng rõ từng nơi từng người.
– Thành Hà Nội năm cửa, chàng ơi
Sông Lục Đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng
Nước sông Thương bên đục bên trong
Núi đức thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh
Đền Sòng thiêng nhất tỉnh Thanh
Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây
Trên trời có chín từng mây
Dưới sông lắm nước, núi nay lắm vàng
Chùa Hương Tích mà lại ở hang
Trên rừng lắm gỗ thời chàng biết không
Ông Nguyễn Minh Không xin được túi đồng
Trên trời lại có con sông Ngân Hà
Nước Tàu dệt gấm thêu hoa
Ông Hữu Sào sinh ra cửa, ra nhà, chàng ơi
Bà Nữ Oa đội đá vá trời
Vua Đại Vũ trị thủy cho đời yên vui
Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời
Em xin giảng rõ từng nơi từng người.
TÂY VƯƠNG MẪU
CHỨC NỮ
CHỊ HẰNG, CHỊ HẰNG NGA
—o—
Chiều chiều dạo mát dưới trăng
Trông lên chỉ thấy chị Hằng ở trong.
—o—
Cách nhau vì bởi xích thằng
Xa nhau vì bởi chị Hằng khiến xa
—o—
Đêm qua ngồi tựa song đào
Thấy người tri kỉ ra vào vấn vương
Năm canh gió lạnh đêm trường
Nửa chăn, nửa chiếu, nửa giường đợi ai
Tay em ngắt nhụy bông nhài
Tay giơ đón gió, tay chòi ghẹo trăng
Rủi may bởi tại chị Hằng
—o—
BÀ TƠ
—o—
Trách ông Tơ sao xe hoài xe hủy
Trách bà Tơ sao xe chỉ lộn vòng
Chỗ em không ưng thì bà muốn
Chỗ em bằng lòng thì bà lại xe rơi
—o—
BÀ NGUYỆT
—o—
Yêu nhau lấy quách nhau đi
Ông Tơ bà Nguyệt làm chi thì làm
—o—
Em không trách ông Tơ
Không phiền bà Nguyệt
Trách phận mình sao thiệt long đong
Năm cô anh đóng năm giường bình phong
Còn một cô bé chửa chồng
Lại đây anh kén cho bằng lòng cô
Một là ông Cống, ông Đồ
Hai là ông Bát, ông Đô cũng vừa
Giả tên bà Nguyệt, ông Tơ
Sớm đi cầu Thước, tối mơ mộng hùng
Rồi ra, cửa lại treo cung
Để cho cô đẻ, cô bồng cô ru
Ru rằng: con bú, con nô
Con lẫy, con bò, con chững, con đi
Ngày sau con lớn kịp thì
Con học, con viết, con thi cùng người
Kìa cành trúc, nọ cành mai
Ông tơ bà nguyệt xe hoài chẳng thương
Một lần chờ, hai lần đợi,
Sớm lần nhớ, chớ lần thương,
Anh thương em nhưng bác mẹ họ hàng chẳng thương
—o—