TÊN ĐI CẢ BỘ : NGAI

Loading

NGAI – NGÁI – NGÀI – NGẠI – NGẢI – NGÃI

—o—o—o—o—o—o—o—

NGAI

Ngai : Ghế có chỗ dựa tay, dành để thờ gia tiên hoặc thần linh
Ngai vàng : Dành cho vua
Ngai sắt : Dành cho chúa
Ngai thần : Một cấp thiên thần
Ngai vị
Tay ngai : Chỗ dựa tay của ghế

Lên ngai
Nối ngai
Chiếm ngai
Bên ngai

Anh lên ngai, em kéo xuống ngai
Đất này chẳng thiếu gì trai anh hùng!
—o—
Chẳng vui cũng thể hội chùa
Chẳng ngai, chẳng hốt cũng vua Ba Vành
—o—
Tay cầm chiếu chỉ
Bước lên ngai vàng
Sấm sét đùng đoàng
Sinh hoàng thái tử
—o—
Bồng bồng cõng rồng đi chơi
Gặp khi trời tối
Rồng rơi cái bịch
Các quan lích kích
Cõng rồng lên ngai
Rồng vươn vai
Rồng tái mặt
Quan vuốt mắt
Rồng nằm im
Ba hồi trống chiêng
Hạ rồng xuống lỗ
—o—
Tôi đi chở đá xây đình
Thờ ông quan Thượng hai dinh trong ngoài
Rồi còn cái hội tháng hai
Tôi lại cầm lọng che ngai rước thần
Cỗ làng thì chẳng đến phần
Việc làng thì lụy đến thân sống nhờ

—o—o—o—

NGÁI

cây ngái, cây sung ngái

ngái ngủ
ngai ngái
ngái xa, xa ngái

Người Ngái tên gọi khác là Ngái Hắc Cá, Hẹ, Lầu Mần, Sín, Đản, Lê) là một dân tộc sinh sống tại Việt Nam
Tiếng Ngái

Làng Ngái, Hương Ngái, Kẻ Ngái : Hương Ngải xưa gọi là làng Ngái hay Kẻ Ngái, thuộc huyện Thạch Thất xứ Đoài, nay là một xã thuộc huyện Thạch Thất, ngoại thành Hà Nội. Truyền thuyết cho rằng có tên như vậy vì khi mới thành lập, xung quanh làng mọc rất nhiều cây ngái dại. Cái tên Hương Ngải cũng có gốc gác từ mùi hoa của loài cây ấy. Khi cây ngái nở hoa, hương thơm lan toả khắp vùng nên dân gian đặt tên làng là “Hương Ngái”, dần dần âm “Ngái” bị đọc chệch đi thành “Ngải”. Hương Ngải có đền thờ Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh, đình làng Hương Ngải, chùa Hương Ngải,…Đầu Làng có quán Nghinh Hương, tương truyền trước sau quán có 7 cây cổ thụ được trồng theo hình sao Bắc Đẩu, tượng trưng cho một làng xã có tiếng văn học. Quán Nghinh Hương được coi là nơi đã truyền tải và Việt hoá tích chèo cổ Lưu Bình – Dương Lễ, một tích chèo giàu giá trị nhân văn của danh sĩ Vũ Trinh, in sâu trong tâm trí nhiều thế hệ người dân Việt Nam. Và cũng là nơi tổ chức lễ Nghinh hương đón sĩ tử đỗ đạt ghi danh bảng vàng, hồi hương vinh qui bái tổ.

Tưởng sung hoá ngái
—o—
Đường xa dặm ngái
—o—
Ăn cho ngái, đái cho xa
—o—
Chè rú Mả, cá đồng Sâu
Đi mô xa ngái nhớ lâu lâu lại về
—o—
Chàng ơi ở lại mà chơi
Về chi đường ngái xa xôi bận lòng
– Ở đây ai cho anh ăn
Ai cho anh mặc, ai nằm cùng anh?
– Ở đây em cho anh ăn
Em may cho anh mặc, em mượn người nằm cùng anh
—o—
Dạ ai hoài cho dù xa ngái
Em xin chàng chớ ngại đừng nghi
Để em lên Đợi xuống Tuy
Đắt làm thuê, ế làm mướn đỡ khi đói lòng
—o—
Cách một con đò, câu hò vọng lại
Trai gái hai làng vạn ngãi tình chung
Nào ai xa ngái lạ lùng
Thượng Phong, Cổ Liễu cùng chung một nhà
—o—
Gặp anh, em đố mấy lời
Gì cao hơn núi gì dài hơn sông?
Cái gì ăn lại no lòng
Cái gì hồng hồng ăn lại đỏ môi?
Cái gì hay ngáp hay ngồi?
Cái gì cầm quạt đứng chơi vỗ đầu?
Cái gì mà nhỏ như sâu?
Cái gì đội đầu, gì lại kéo quân?
Cái gì ngái lại nên ngưn?
Cái gì rất gần mà lại nên xa?
Cái gì có quả không hoa?
Cái gì lắm cánh nở ra đầy cành?
Cái gì mà lại có bành?
Cái gì một mình mà lại có ang?
Cái gì mà lắm quân quan?
Cái gì nên đàn, gì lại nên say?
Cái gì ăn với trầu cay?
Cái gì thấp thoáng đợi ngày xe duyên?
—o—
Trai làng Ngái gái Cổ Am
Thà rằng chẳng biết cho cam
Biết rồi kẻ Bắc ngưới Nam thêm rầu.
—o—
Trai làng Ngái gái Đồng Xâm
Thà rằng chẳng biết cho cam
Biết rồi kẻ Bắc ngưới Nam thêm rầu.

—o—o—o—

NGẢI

ngải, chơi ngải, bùa ngải

cây ngải
ngải cau
ngải nạp hương
ngải phiến
ngải tim
ngải trắng
ngải đen
ngải hoa vàng
ngải tượng : bình vôi
ngải bướm
ngải cứu
ngải đắng
ngải dại
ngải tây
ngải phù dung (cúc mốc, ngọc phù dung)
ngải hoang
ngải mọi
ngải quắn
ngải tiên
ngải nàng rủ
ngải tố
ngải dấm
ngải mến khách, ngải nàng mơn (tóc tiên)
ngải bà chúa xiêm
ngải thơm
ngải nhật

ngải năm ông
ngải bảy núi

ngải kéo khách
ngải cầu tài
ngải bùa yêu

Cây ngải tiên : Theo sự tích cá chép hoá rồng ở Thác Bờ, mùa xuân hoa ngải tiên rụng xuống nước, cá đớp được hoa ấy mới có thể hoá rồng

Ngải Tiên (Tiên Hương)
Ngải Chúa
Ngải Thần

Xã Hương Ngải, huyện Thạch Thất, Hà Nội

Thôn Ngải, xã Văn Phong, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Đình làng Ngải là thờ Giác Hải thiền sư, Cối Tuyền Thủy tề long vương, Đinh Công tĩnh thủy.

Thôn Ngải Châu, xã Đông Minh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình

Thôn Ngải Phóng Chồ, xã Thải Giàng Phố, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai

– NGẢI (CÂY)

Tháng chín thì quít đỏ trôn
Tháng ba ngải mọc cái con tìm về

– BÙA NGẢI

Anh muốn tìm dòng nước trong
Nên đi ngược dòng sông Cái
Hay vì bị bùa ngải
Nên anh bỏ bãi lên nguồn?
Thuyền anh dù thuận gió đi luôn
Đến đầu Thác Ngựa cũng phải cuốn buồm trở lui
Thề xưa lời đã nặng lời
Anh cố xa em đi nữa
Nếu chẳng phải ý trời thời cũng khó xa
Anh đi em ở lại nhà
Biển sâu em lặn lội nuôi mẹ già đợi anh

—o—o—o—

NGÀI

Con ngài, bướm ngài, ngài tằm
Ngài, đức ngài
Vạn ngài : vạn người

– VẠN NGÀI

Mắt phượng mày ngài
—o—
Em như tố nữ trong tranh
Anh như ngòi bút chấm cành hoa mai
Tiếc thay mắt phượng mày ngài
Hồng nhan thế vậy nỡ hoài tấm thân

– VẠN NGÀI

– Đố eng con tít mấy chân
Núi Đầu Mâu mấy trượng chợ Dinh Xuân mấy ngài
– Em ơi con tít trăm chân,
Núi Đầu Mâu ngàn trượng, chợ Dinh Xuân vạn ngài.
—o—
Cách một con đò, câu hò vọng lại
Trai gái hai làng vạn ngãi tình chung
Nào ai xa ngái lạ lùng
Thượng Phong, Cổ Liễu cùng chung một nhà

—o—o—o—

NGẠI

Ngại

Ngại ngần
Ngại ngùng
Ngần ngại
E ngại
Quan ngại
Nghi ngại

Ngai chi, đừng ngại, chỉ ngại
Ngại vì

– NGẠI

Tiền là gạch, ngãi là vàng
Muốn bán vàng mua ngãi, ngại chàng giá cao

– CHẲNG NGẠI

Cảm thương con dế ở hang
Nắng mưa chẳng ngại, cơ hàn quản bao
—o—
Yêu nhau chẳng ngại đường xa
Đá vàng cũng quyết phong ba cũng liều
—o—
Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh
Gái nào bảnh bằng gái Tân Châu
Anh thương em chẳng ngại sang giàu
Mứt hồng đôi lạng, trà tàu đôi cân
—o—
Mùa xuân dạo bước Tây Hồ
Thiên duyên sao khéo tình cờ gặp em
Gánh hoa hoa lại tươi thêm
Hương xuân đậu xuống vai mềm thêm xuân
Nói xa chẳng ngại nói gần
Ước gì tôi được làm thân với nàng

– NGẠI LÒNG

Đèn nào cao bằng đèn Cầu Lộ
Con gái nào ngộ bằng gái Vĩnh Long
Sao em lớn tuổi ở vậy chưa chồng
Anh đây muốn làm phò mã nhưng ngại lòng quá đi.

– NGẠI VÌ

Ngó ra hòn Dứa tăm tăm
Thấy anh kéo lưới bịt khăn đầu rìu
Thương anh em cũng muốn liều
Ngại vì một nỗi sớm chiều buồn teo

– E NGẠI

Đôi ta trót đã nặng tình
Lấy nhau e ngại gia đình thấp cao

– NGẦN NGẠI

Con cò là con cò vàng
Muốn đi hát đúm sợ làng cười chê
Ai cười lời kẻ thôn quê
Mà cò ngần ngại đứng lề đường quan
Hay cò vui câu xẩm xoan
Thì cò bay đến hân hoan cùng người

– NGẠI NGHI

Dạ ai hoài cho dù xa ngái
Em xin chàng chớ ngại đừng nghi
Để em lên Đợi xuống Tuy
Đắt làm thuê, ế làm mướn đỡ khi đói lòng
—o—
– Em có chồng chưa, xin thưa cho thiệt
Đừng để anh lầm tội nghiệp lắm em!
– Em chửa có chồng, anh đừng nghi ngại,
Chẳng tin tới nhà hỏi lại trước sau.
Có nón ai lại đi dầu
Có chồng ai nỡ đi đâu một mình.
—o—
Bấy lâu em còn nghi còn ngại
Bữa nay em kêu đại bằng mình
Phụ mẫu hay đặng, không lẽ giết mình với em?

—o—o—o—

NGÃI

cây ngãi
ngãi sọc xanh (cỏ lan chi)
ân ngãi = ân nghĩa
có ngãi
nhân ngãi = nhân nghĩa
Quảng Ngãi

– NGÃI

Duyên phải duyên kim cải
Ngãi phải ngãi giao hoà
Rồi mai mốt đây con bạn nó vìa nhà
Cho qua nhắn kỉnh thăm cô bác với ông bà đặng bình an

– CÓ NGÃI

Ông sư có ngãi
Bà vãi có nghì
—o—
Không ai có ngãi như anh
Khi đau trốn mất, khi lành viếng thăm
—o—
Em thương không thương nỏ biết
Em thốt nhiều lời thảm thiết hơn thương
Thiếu chi ba phủ Thừa Thiên
Thấy anh có ngãi nên em ôm duyên ngồi chờ
—o—
Đố anh con rết mấy chân,
Cầu ô mấy nhịp, chợ Dinh mấy người
Chợ Dinh bán nón quan hai,
Bán tua quan mốt, bộ quai năm tiền,
Năm tiền một giạ đỗ xanh,
Một cân đường cát, đưa anh lên đường.
– Thôi thôi đường cát làm chi
Đỗ xanh làm gì, có ngãi thì thôi.

– KHÔNG NGÃI

Người dưng có ngãi thì đãi người dưng
Anh em không ngãi thì đừng anh em

– CỰU NGÃI

Sông sâu sóng bủa tứ bề
Trách người cựu ngãi chẳng hề vãng lai

– KẾT NGÃI

Bao giờ rặc nước sông Bùng
Hai Vai trúc đá, bể Đông cát bồi,
Thì xin thầy mẹ sang chơi
Hai ta kết ngãi làm đôi vợ chồng.

– MUA NGÃI

Tiền là gạch, ngãi là vàng
Muốn bán vàng mua ngãi, ngại chàng giá cao

– BỎ NGÃI

Thân em như áo mới may
Như cau bửa miếng bỏ trên khay trầu
Trăm năm không bỏ ngãi chàng đâu
Vì bà Nguyệt Lão đã bắc cầu lương duyên

– VÌ NGÃI

Phải lòng vì duyên vì ngãi
Đâu phải vì lúa bảy tiền ba
Bây giờ anh rẫy tôi ra
Anh theo những đứa lê la ngoài đường

– ĐẠO NGÃI

Ngó xuống biển Đông, con cá ngư ông thường ngày thường lội,
Ngó lên trên rừng, con hổ thường nằm;
Thiếp đó chàng đây đạo ngãi trăm năm,
Ví dù không có câu duyên nợ, cũng viếng thăm kẻo buồn.

– NGÃI TÌNH

Ngãi tình sảy sảy giần giần
Thiên tràng địa cửu, Châu Trần dài lâu
—o—
Trăm năm dạ ở đinh ninh
Nào ai phụ ngãi quên tình mặc ai
—o—
Say thời say ngãi say tình
Say chi chén rượu mà mình nói say!
—o—
Con thú bốn chân, anh gọi con mèo thì phải
Còn em với anh tình ngãi, sao anh cũng gọi con mèo?
—o—
Đem lòng xa lánh sao đành
Chẳng duyên tơ tóc cũng tình ngãi nhơn
—o—
Đem lòng xa lánh sao đành
Chẳng duyên tơ tóc cũng tình ngãi nhơn
—o—
Cách một con đò, câu hò vọng lại
Trai gái hai làng vạn ngãi tình chung
Nào ai xa ngái lạ lùng
Thượng Phong, Cổ Liễu cùng chung một nhà

– ÂN NGÃI

Thôi thôi đừng ân đừng ngãi
Khoan khoan đừng phải đừng không
Đừng vợ đừng chồng, đừng gì hết thảy
Anh có nơi rồi, rúng rảy duyên em
—o—
Anh ra đi đi lính cho làng
Thượng văn hạ võ làm quan triều đình
Ra đi có tướng có binh
Lên lưng con tuấn mã ra kinh một hồi
Phò vua một dạ trên ngôi
Em tưởng anh có ngãi em ngồi em trông
Hay đâu anh bạc ngãi vong ân
Liệng ra biển Bắc trôi lần biển Đông
Bấy lâu tưởng ngãi vợ chồng
Hay đâu tát nước biển Đông một mình.

– NHƠN NGÃI

Đó xa nhơn ngãi đó mừng
Đây xa nhơn ngãi như gừng xát gan
—o—
Trách ai vội thác suối vàng,
Ngãi nhơn trôi hết thiếp chàng xa nhau.
—o—
Trách người nghe tiếng thị phi
Phụ phàng nhơn ngãi chẳng vì ái ân
—o—
Chẳng tham của sẵn anh đâu
Tham vì nhơn ngãi của đầu móng tay
—o—
Đã mang nhơn ngỡi vào mình,
Bỏ đi thì tiếc công trình xưa nay.
—o—
Đại vi đài vi các, tiểu vi đống vi lương
Anh chẳng tham rộng ruộng lớn vườn
Tham vì nhơn ngãi cũng thường mà thôi

– NGÃI NHÂN

Đường mòn, quen lối quen chân
Bao năm lên xuống ngãi nhân chưa tròn
—o—
Qua không ham rộng ruộng lớn vườn
Ham vì nhân ngãi cang thường mà thôi
—o—
Bứt dây mà nối cho dài
Nối từ ngoài ngõ, nối dài đến đây
Ơi người ngồi nép bóng cây
Đi tìm nhân ngãi vô đây mà tìm
—o—
Anh cầm cây viết, anh dứt đàng nhân ngãi
Em cầm cây kim, em thêu chữ ân tình
Chữ ân tình anh nghe cũng phải
Đường nhân ngãi anh nắm cũng vừa
Hòn núi Liên Sơn cây chặt cây chừa
Anh thương em, có kẻ đón ngừa, nói gian.

– NHÂN NGÃI

– Tiếng ai tha thiết bên triều
Có phải nhân ngãi thì chèo sang sông
– Tiếng ai âu yếm bên đồng
Có phải nhân ngãi sang sông cùng chèo.
—o—
Tiếng ai tha thiết bên giang
Có phải nhân ngãi mời sang ăn trầu
Tiếng ai tha thiết bên cầu
Có phải nhân ngãi ăn trầu thì sang?

– NGÃI TÀO KHANG

Nhà em công việc bề bề
Cho nên em phải trở về ngay đây
Xin chàng nghỉ lại chốn này
Xin đừng có tưởng nước mây xa đường
Rồi ra nên ngãi tao khang
Như loan lấy phượng tỏ tường trúc mai
—o—
Nhà em công việc bề bề
Cho nên em phải trở về ngay đây
Xin chàng nghỉ lại chốn này
Xin đừng có tưởng nước mây xa đường
Rồi ra nên ngãi tao khang
Như loan lấy phượng tỏ tường trúc mai

– DUYÊN NGÃI

Ngắn hơi kêu chẳng thấu trời
Ngãi đi phần ngãi, duyên dời phần duyên
—o—
Lên bờ lại muốn xuống thuyền,
Vì chưng chữ ngãi chữ duyên buộc rồi.
Buộc vào thành cánh hoa hồi,
—o—
Khi lên khi xuống hai người cùng khiêng.
Buộc vào tấm lưới sợi giềng,
Khi khơi khi lộng chỉ riêng ta mình.
Chữ duyên chữ ngãi chữ tình,
Cả ba chữ ấy là in hình trong gương.
Lắng nghe nàng nói cũng tình,
Trông nàng bẻ lái càng xinh con thuyền.
Mong cho hương lửa bén duyên,
Để anh phỉ nguyện ước nguyền bấy lâu
—o—
Duyên ta là ngãi tình cờ
Bấy lâu luống những ngẩn ngơ chờ chàng
Gặp nhau đây đá thử vàng
Miếng trầu thết đãi dạ mang chữ tình
Tương tư buồn bực trong mình
Sợ thầy hãi mẹ làm thinh vui cười
Quên sầu thiếp gượng làm tươi
Đồ huê nguyệt sợ miệng cười thế gian
Trốn cha trốn mẹ theo chàng
Vì chàng nên thiếp lạc ngàn lên đây
Đến đây thiếp ở lại đây
Bao giờ quế mọc xanh cây mới về
Đã đành nên thiếp nên thê
Nên khăn nên gối không vê cũng tròn
Non mòn nhưng nghĩa không mòn…

– QUẢNG NGÃI

Tiếc công Quảng Ngãi đường xa,
Để cho Bình Định thủ khoa ba lần.
Tiếc công Bình Định xây thành,
Để cho Quảng Ngãi vô giành thủ khoa.
—o—
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Bình
Hỏi anh ba tỉnh, em thuận tình nơi mô?

—o—o—o—

Chia sẻ:
Scroll to Top