TIẾN TRÌNH SINH & CÁC LỄ SINH

Loading

SINH BAO TỔNG :
– Rốn tổng (Xoay ngôi thai)
– Bào tổng (Chuyển dạ)
– Ối tổng (Vỡ ối)
SINH BAO ĐIỀU :
– Bao điều (Chuyển hoá bao điều chuyển thành lớp nhờn bám trên da em bé sơ sinh)
– Ối thân (Chuyển hoá ối điểu chuyển thành lớp nhờn bám trên da em bé sơ sinh)
– Em bé/Rốn thân (Em bé/Rốn thân chui ra khỏi cửa mình của mẹ)
Lưu ý :
– Sinh bọc bao điều con nguyên là hiện tượng bao điều chuyển hoá quá chậm, thường là có trục trặc
– Lớp nhờn bám vào da em bé có gốc là ối điều và bao điều. Việc tắm rửa cho em bé sơ sinh và việc cố tình sinh con trong nước làm mất lớp nhờn này, dẫn đến hỏng hào quang hạ thể của em bé sơ sinh trong giai đoạn sau
SINH BAO LA :
– Bao la (chuyển từ cha mẹ mang thai sang cha mẹ xứ sở)
– Ối nhau (chuyển từ cha mẹ mang thai sang cha mẹ xứ sở)
– Rốn nhau/Nhau (Bong nhau)
LỄ CẮT RỐN
– Tách đôi rốn nhau/nhau và rốn thân/em bé tại rốn trung tâm
LỄ CHÔN NHAU
– Nhau/rốn nhau nối đất
Lưu ý :
– Khi được chôn (thường là bởi chính cha đẻ), nhau rời khỏi cha mẹ đẻ để về với đất, mà liên quan đến cha mẹ xứ sở
– Em bé/rốn thân nối trời tốt hơn sau khi được cắt rốn và em bé được nối đất thông qua nhau khi nhau được chôn
LỄ ĐẶT TÊN
– Tên nối bộ thân rốn nhau với nhau và với trường xứ sở
– – – Họ nối với nhau
– – – Họ đệm nối với rốn nhau
– – – Tên đệm nối với rốn thân
– – – Tên nối với thân
Lưu ý
– Bộ thân rốn thân ở thế giới vật lý (với cha mẹ nuôi), bộ nhau rốn ở trong đất, cùng bộ rốn tổng, ối tổng, bào tổng ở xứ sở, tái lập trạng thái bào thai
– Lưu ý : Tên liên quan đến cha mẹ xứ sở
LỄ ĐẦY CỮ
Lễ đầy cữ đánh dấu việc em bé có đủ bộ hào quang hồn vía phách, nói cách khác việc sinh bộ hào quang đã hoàn thành
– Con gái 9 vía cữ 9 ngày
– Con trai 7 vía cữ 7 ngày
Thời gian tổ chức lễ đầy cữ
– 7 ngày với bé trai với điều kiện rốn đã rụng
– 9 ngày với bé gái với điều kiện rốn đã rụng
– Sau khi rốn rụng nếu quá thời hạn này
Việc sinh bộ hào quang liên quan đến tái lập trạng thái bào thai cho em bé
– Sinh bộ Hạ thể (Phách – Cảm – Trí) từ bộ Bao điều (Rốn thân – Ối điều – Bao điều)
– Sinh bộ Trung thể (Phách – Cảm – Trí) từ bộ Bao la (Rốn nhau – Ối nhau – Bao la).
– Sinh bộ Thượng thể (Phách – Cảm – Trí) từ bộ Bao tổng (Rốn tổng – Ối tổng – Bào tổng)
Đầy cữ liên quan đến việc chấm dứt thai kỳ (thời gian ở cữ) của cha mẹ mang thai, chuyển sang giai đoạn của cha mẹ nuôi dạy Em bé nối với thân thể vật lý của cha mẹ nuôi dạy qua việc bú mẹ, ị cứ xu, ngủ trong vòng tay cha mẹ. Em bé nối với thân thể năng lượng của cha mẹ xứ sở qua bộ hào quang.
Lớp nhờn bám vào da em bé sơ sinh có gốc là ối điều và bao điều. Tất cả trục trặc và can thiệp trong quá trình chuyển hoá bao điều sẽ làm hỏng bộ hào quang hạ thể
– Việc can thiệp vào thai kỳ và sinh sản ví dụ như sinh mổ có thể làm bao điều bị phá vỡ không đúng cách
– Việc sinh bao điều chứng tỏ bao điều không chuyển hoá được
– Việc tắm rửa cho em bé sơ sinh và việc cố tình sinh con trong nước làm mất lớp nhờn này, dẫn đến hỏng hào quang hạ thể của em bé sơ sinh.
– Việc rốn không rụng được hoặc rụng rất chậm cũng chứng tỏ quá trình này có vấn đề
Trung thể vía của em bé sơ sinh có gốc là bao la. Tất cả những trục trặc và can thiệp trong quá trình chuyển hoá bao la sẽ làm hỏng thể vía
– Không để nhau bong tự nhiên mà giật nhau ra
– Nhau cài răng lược và băng huyết
– Không cắt rốn để nhau bị kiệt quệ
– Không chôn nhau
– Bảo quản nhau bằng muối hay tủ lạnh
– Vứt nhau và tiêu huỷ nhau
Thượng thể của em bé sơ sinh có gốc là bao tổng, ối tổng, rốn tổng. Tất cả những trục trặc và can thiệp trong quá trình chuyển hoá bào thai giai đoạn xoay ngôi thai, chuyển dạ và vỡ ối ban đầu sẽ làm hỏng bộ hào quang thượng thể
– Cha mẹ em bé không kết nối được với quê hương đất nước xứ sở gốc của mình
– Em bé sinh ngôi ngược (chưa kịp hoặc không xoay ngôi thai được)
– Không chuyển dạ được (phải mổ)
– Không vỡ ối được (phải mổ)
– Ca sinh xảy ra ở địa điểm bất lợi, không kết nối được hoặc kết nối rất kém với quê hương đất nước xứ sở gốc của cha mẹ em bé
Giai đoạn sinh hào quang bị trục trặc khiến em bé bị yếu phách, vía, hồn dẫn
– Em bé rất dễ bị các tại nạn thân thể và các vấn đề sức khoẻ và càng lớn vấn đề càng trầm trọng, trừ khi được chữa lành tận gốc
– Em bé lớn lên sẽ bị các trạng thái như : yếu bóng vía, sợ mất vía, bị át vía, hồn vía lên mây, hồn siêu phách tán …,
– Bộ trung thể là bộ vía, có thể “xuất ra” và vận hành động lập với thân thể, ví dụ xuất vía lúc ngủ hay lúc thiền. Khi hào quang yếu, người bệnh sẽ bị xuất vía tự động, thân một đằng, hồn vía một nẻo cực kỳ nguy hiểm
– Giai đoạn sinh hào quang bị trục trặc có thể sinh ra trạng thái tám vía, thân nam hoặc nữ nhưng vía nửa nam nửa nữ, dẫn đến các rối loạn giới tính sau này
SỰ KIỆN RỤNG RỐN
Khi bên em bé (ở bên cha mẹ nuôi dưỡng) tái lập trạng thái bào thai lấy em bé làm trung tâm thì bên nhau (ở trong đất) cũng xảy ra quá trình tái lập trạng thái bào thai lấy nhau làm trung tâm. Quá trình nhân đôi bào thai này giống như quá trình nguyên phân. Khi nguyên phân bào thai kết thúc, lúc này rốn thân và rốn nhau không cần kết nối với nhau để tạo thành trạng thái bào thai chung nữa, vì lúc này đã có 2 bào thai, 1 của nhau và 1 của em bé. Kết quả là rốn thân rụng ra khỏi em bé.
Thời gian rụng rốn
– Rốn của em bé sơ sinh sẽ tự đông rụng sau 1 tuần, nhưng cũng có thể sau 2, thậm chí 3 tuần.
– Nếu rốn không rụng được sau 7 ngày với bé trai và 9 ngày với bé gái, thì có nghĩa là việc hình thành hào quang của em bé có trục trặc. Đứng quá sốt ruột vì cha mẹ cần hiểu rằng em bé đang nỗ lực để sữa chữa và khắc phục các trục trặc này. Điểm cộng của việc này là nó cho thấy em bé có năng lực sửa chữa, điều chỉnh và tự hoàn thiện quá trình sinh của mình, và không phải em bé nào cũng có năng lực này.
– Nhiều quá trình mang thai và sinh nở hoàn toàn không tự nhiên, nhưng rốn em bé khô đi, rồi rụng bình thường, không có dấu hiệu trục trặc nào cả, bởi quá trình mang thai bị sai lệch một cách có hệ thống từ đầu đến cuối, khả năng sửa chữa vượt qua năng lực của em bé, nên em bé sẽ hơi đơ và các quy trình sẽ diễn ra hầu hết tự động
– Điều qua trọng không phải là rốn rụng nhanh hay chậm. Điều quan trọng là quá trình chuyển hoá của em bé sơ sinh hoàn thành cơ bản, thì rốn mới rụng được
Trạng thái của rốn khi rụng
– Trước khi rụng, rốn sẽ khô đi, nhưng không khô quắt mà vẫn mềm.
– Nếu rốn bị ướt thì quá trình rụng rốn sẽ bị chậm lại. Không cần lau rửa rốn để cho nó khô, mà chỉ cần giữ vệ sinh bình thường và tránh động chạm.
KẾT THÚC QUÁ TRÌNH SINH
Sự kiện rụng rốn báo hiệu việc em bé đủ độc lập, thời gian ở cữ đi vào giai đoạn kết thúc, nghĩa là sự kiện sinh kết thúc .
– Quá trình sinh bắt đầu bằng việc xoay ngôi thai, sư kiện xoay ngôi thai được vận hành bởi rốn trung tâm
– Ở giữa là sự kiện cắt rốn
– Kết thúc bằng sự kiện rụng rốn, mà chính là sự kiện đối xứng với với sự kiện xoay ngôi thai qua sự kiện cắt rốn
Trước sự kiện xoay ngôi thai, bào thai ở trạng thái dưỡng hay thuỷ sinh trong bọc. Với sự kiện xoay ngôi thai, bào thai chuyển sang trạng thái thuỷ phân, để sinh ra từng cấu phần thân, rốn, ối, nhau; em bé chuyển từ trạng thái an dưỡng sang trạng thái động phá. Nếu thay bị sảy, thì một sự kiện tương tự như xoay ngôi thai sẽ xảy ra.
Với sự kiện rụng rốn, chuỗi chuyển hoá sinh tử sẽ kết thúc, em bé chuyển từ trạng thái động, thuỷ phân sang trạng thái an, sinh dưỡng. Quá trình sinh kết thúc. Từ lúc này em bé sẽ bú nhiều hơn và ngủ được những giấc dài hơn.
LỄ RỐN
Câu hỏi là cha mẹ nên làm gì với rốn rụng ? Không có câu trả lời rõ ràng cho vấn đề này.
– Rốn có thể được một số cha mẹ cất giữ trong nhà
– Rốn có thể được một số cha mẹ chôn trong vườn nếu nhà có vườn
– Rốn có thể được một số cha mẹ đốt trong bếp củi vì không biết nên bảo quản thế nào
– Rốn có thể được một số cha mẹ vứt vào sọt rác, và theo rác đi đâu đó
– Rốn có thể được một số cha mẹ gói lại để lên bàn thờ
– Rốn có thể được một số cha mẹ đưa về thiên nhiên
– – – Vứt xuống sông, suối
– – – Vứt xuống biển
– – – Vứt vào rừng
– – – Vứt lên núi
Rốn là một phần của bào thai, một đứa con như em bé, như nhau, không nên bị vứt như rác.
Lễ rốn chính là nghi lễ giúp cha mẹ xác đinh nên làm gì với rốn. Cha mẹ nên đưa rốn rụng lên ban thờ, thắp hương hỏi thần linh và gia tiên, rằng rốn rụng nên được đưa về đâu để tốt nhất cho em bé và cho tổng thể thân rốn ối nhau.
– Một số cha mẹ sẽ nhận được câu trả lời rõ ràng.
– Một số cha mẹ sẽ không nhận được câu trả lời thì hãy đưa rốn về thiên nhiên theo hoàn cảnh của mình
– – – Nếu nhà có vườn, nhà và vườn đều thuộc sở hữu cá nhân lâu dài của cha mẹ hoặc sở hữu của ông bà tổ tiên, khi đó hãy chôn rốn ở vườn
– – – Nếu nhà không có vườn, vườn không thuộc sở hữu cá nhân lâu dài …, hãy đưa rốn về với thiên nhiên, cụ thể là về đất, về nước, về khí, về lửa, về núi rừng, về sông biển … không thuộc sở hữu cá nhân của ai đó, với lời nguyện rằng cha mẹ xứ sở sẽ đón rốn và đưa rốn về nơi rốn cần về.
LỄ ĐẦY THÁNG
Đầy tháng (âm lịch) là lễ đánh dấu em bé (cả thể vật lý và thể năng lượng), cùng cả bộ thân rốn ối nhau của mình đã vận hành được trọn vẹn một chu kỳ tháng, mà bao trong nó các chu kỳ ngày trăng và tuần trăng
Lưu ý
– Chu kỳ rụng trứng là Kinh nguyệt
– Chu kỳ mang thai là Tam cá nguyệt
Lễ đầy tháng đặc biệt hỗ trợ
– Hỗ trợ bộ thượng thể hình cầu
– Hỗ trợ tái kết nối cả bộ bào thai, bao la và bao điều, vì các trạng thái bào đều đi từ trứng : Trứng –> Hợp Tử –> Phôi bào –> Bào thai
– Hỗ trợ tái kết nối với cha mẹ xứ sở và cha mẹ trứng tinh trùng, mà bị yếu đi khi em bé ra đời và ở trong vòng tay của cha mẹ nuôi dạy
LỄ DẠ ĐỀ (3 tháng 10 ngày hay 100 ngày)
Thời giang mang thai kéo dài 9 tháng 10 ngày, thời gian dạ đề (tạm gọi là mang thai ngoài) kéo dài 3 tháng 10 ngày, tổng là 12 tháng 20 ngày. Như vậy 3 tháng 10 ngày chính là lúc em bé được 1 tuổi mụ.
Thường trẻ chỉ khóc dạ đề trong vòng 3 tháng 10 ngày. Em bé khóc dạ đề vì các vấn đề xảy ra ở giai đoạn sinh trước đó quá nhiều, khiến cấu trúc và vận hành cơ thể vật lý và cơ thể năng lượng của em bé sơ sinh không hoàn thiện, em bé ăn ngủ không yên, bắt buộc các cha mẹ phải kéo dài thời gian mở cổng sinh để hỗ trợ cho em bé sơ sinh.
Việc mở cổng sinh kéo dài như vậy sẽ gây chảy máu năng lượng và rất nguy hiểm.
3 tháng 10 ngày là giới hạn mà các bộ cha mẹ sẽ đóng hoàn toàn ca sinh của mình, các lỗi sinh chưa thể khắc phục được nữa, sẽ phải chuyển sang các chu kỳ/các lễ tuổi đời tiếp theo.
LỄ THÔI NÔI (ĐẦY NĂM)
Nếu lễ dạ đề là lễ đầy tuổi mụ, tuổi âm, thì lễ đầy năm là lễ đầy tuổi dương (tuổi sinh, tuổi trời, tuổi cha, tuổi thầy)
Trong lễ này em bé sẽ được tái kết nối với bộ cha mẹ đầy đủ của mình
– Cha mẹ xứ sở
– Cha mẹ trứng tinh trùng
– Cha mẹ mang thai
– Cha mẹ nuôi dưỡng
Lễ này em bé cũng được tái kết nối với bộ cha mẹ đỡ sinh của mình
– Ông Tơ bà Nguyệt (đỡ Cha mẹ xứ sở trong lễ Xe tơ kết tóc)
– Bộ 12 bà mụ (13 là bà mụ tổng) và 13 ông thày đỡ
Như vậy em bé sẽ có hai lễ đầy năm đều tính theo âm lịch
– Lễ đầy năm tuổi mụ (lễ âm)
– Lễ đầy năm tuổi sinh (lễ dương)
Hai lễ đầy năm này đều là một kỳ hạn để sửa chữa các lỗi sinh theo các chu kỳ thời gian (ngày, tuần, tháng, quý, mùa, năm) và theo các chu kỳ sinh
Các lễ sau này sẽ cách quãng xa hơn, đó là lễ 3 tuổi, 6 tuổi, 9 tuổi và lễ dứt căn năm 12 tuổi, nhưng các lễ đầu đời là quan trong nhất vì nó ảnh hưởng đến sức khoẻ cả thể xác và tinh thần của em bé trong suốt cuộc đời.
ĐỐI ỨNG LỄ TUỔI SINH VÀ LỄ TỬ
Giới hạn cuối cùng để sửa chữa các lỗi sinh trong một kiếp người chính là lễ tử mà đi đối ứng với lễ sinh
– Lễ phát tang (tương đương với lễ chôn nhau cắt rốn, đặt tên)
– Lễ 7 ngày (tương đương với lễ đầy cữ và rụng rốn)
– Lễ 49 ngày (tương đương với lễ đầy tháng)
– Lễ 100 ngày (tương đương với lẽ dạ đề)
– Lễ giỗ đầu (tương đương với lễ đầy năm)
Nếu đến giới hạn này mà các lỗi sinh vẫn không sửa được, người mất (cha mẹ và con) sẽ không hoặc khó siêu thoát, hoặc siêu thoát trong tình trạng nợ, nghĩa buộc phải mang các lỗi sinh này sang kiếp sau.
Chia sẻ:
Scroll to Top