NÀNG TIÊN NAM THĂNG LONG

Loading

CỬA NAM THĂNG LONG
Nhà Lý xây dựng Hoàng thành Thăng Long theo cấu trúc ba vòng thành (tam trùng thành quách), trong đó
– Vòng trong cùng là Cấm Thành
– Vòng thứ hai là Hoàng thành là nơi ở và làm việc của vua. Phần thành bao quanh Hoàng thành ban đầu được đắp đất, sau đó được gia cố và xây bằng gạch. Người ta cũng gọi đây là Long thành, Phượng thành, hay Long Phượng thành. Phía ngoài thành này được đào ngòi ngự, nối với dòng Nhị Hà. Theo hệ thống này, thuyền rồng có thể xuôi dòng vào Đại Nội.
– Vòng thứ ba là thành Đại La, hay La Thành, bao bọc quanh khu ở của quan lại, nhân dân và các phố phường, gọi là khu vực Kinh thành.
Hoàng thành có bốn cửa.
– Cửa thứ nhất gọi là Tường Phù (cửa phía Đông) mở ra phía Chợ Đông và khu phố buôn bán tấp nập của phường Giang Khẩu (đầu phố Hàng Buồm) và đền Bạch Mã
– Cửa thứ hai gọi là Quảng Phúc (cửa phía Tây), mở ra trước chùa Một Cột và chợ Tây Nhai (chợ Ngọc Hà) thuộc khu vực đường Hùng Vương ngày nay. Phía trước cửa này là một khoảng sân rộng được dùng để tổ chức hội mừng ngày sinh của nhà vua.
– Cửa thứ ba gọi là Đại Hưng (cửa phía Nam) với ý nghĩa là sự hưng thịnh lớn. Cửa này mở ra ở khu vực Cửa Nam hiện nay. Nơi này cũng có một khoảng sân rộng để hoàng thân, quốc thích và nhân dân tổ chức lễ hội ném còn.
– Cửa thứ tư gọi là Diệu Đức (cửa phía Bắc), mở ra trước sông Tô Lịch đoạn chảy qua phố Phan Đình Phùng ngày nay.

“Vợ hiền hoà, nhà hướng nam”. Hoàng là chỗ ở và chỗ ngồi của vua, nên cũng như mọi ngôi nhà Việt, đều rất coi trọng hướng nam :

– Cửa Đại Hưng : Thời Lý xây dựng ở cửa Đại Hưng Trữ Văn đình. Thời Lê, vùa Lê Thánh Tông cho xây dựng Quảng Văn đình vào tháng 10 năm Tân Hợi (1491), lúc này Trữ Văn đình đã không còn nữa. Cả hai ngôi đình này đều được coi là những ngôi đình đầu tiên trên đất nước ta.

Vì thành Thăng Long có nhiều lớp vòng thành và được sửa chữa qua nhiều thời kỳ nên thực ra có nhiều cửa Nam

– Cửa Nam của Cấm Thành
– Cửa Nam Đông Hưng
– Cửa Đông Nam Môn, cửa Tây Nam Môn
– Cửa Đông Tràng An, cửa Tây Tràng An
– Cửa Nam của La Thành
– Cửa ô phía Nam như ô Cầu Dền, ô Đồng Lầm, ô Đông Mác, ô Chợ Dừa
Cấm Thành là nơi diễn ra các nghi lễ trang trọng nhất của quốc gia. Cấm Thành chính là khu vực núi Nùng, trên núi nùng có cung điện Cần Nguyên – Thiên An, đời Lý Trần, và điện Kính Thiên thời Lê. Theo “Đại Việt Sử ký toàn thư”, điện Kính Thiên được xây dựng năm 1428 đời Vua Lê Thái Tổ và hoàn thiện vào đời Vua Lê Thánh Tông. Điện Kính Thiên được xây dựng trên núi Nùng, ngay trên nền cũ của cung Càn Nguyên – Thiên An thời Lý, Trần. Điện Kính Thiên quay mặt về phía Nam, nơi đây còn dấu vết của Thềm Rồng. 
Phía Tây Nam là Quốc Tử Giám, được xây dựng qua các đời vua bắt đầu từ thời Lý, đến thời Lê bổ sung hệ thống bia tiến sỹ dựng trên lưng rùa. Phía Đông Nam là về phía Hồ Gươm. Trấn Nam Thăng Long đặt ở ô Đồng Lầm, chính Nam vòng thành ngoài so với cửa Đại Hưng
ĐỘNG TIÊN & NÀNG TIÊN THĂNG LONG
Thăng Long được coi là Động Tiên
Nghìn thu gặp hội thái bình,
Trải xem phong cảnh khắp thành Thăng Long.
Phố ngoài bao bọc thành trong,
Cửa Nam, Giám, Bắc, Tây, Đông rõ ràng.
Ba mươi sáu mặt phố phường,
Hàng Giầy, Hàng Bạc, Hàng Ngang, Hàng Đào.
Người đài các, kẻ thanh tao,
Qua hàng thợ Tiện lại vào Hàng Gai.
Hàng Thêu, Hàng Trống, Hàng Bài,
Hàng Khay trở gót ra chơi Tràng Tiền
Nhác trông chẳng khác động tiên,
Trên đồn cờ kéo, dưới thuyền buồm giăng.
Phong quang lịch sự đâu bằng,
Dập dìu võng lọng, tưng bừng ngựa xe.
Hàng Vôi sang phố Hàng Bè,
Qua tòa Thương Chính trở về Đồng Xuân.
Trải qua Hàng Giấy dần dần,
Cung đàn nhịp phách nên xuân bốn mùa.
Cầu Đông vang tiếng chợ Chùa,
Trăng soi giá nến, gió lùa khói hương.
Mặt ngoài có phố Hàng Đường,
Hàng Mây, Hàng Mã, Hàng Buồm, Hàng Chum.
Tiếng Ngô, tiếng Nhắng um um,
Lên lầu xem điếm tổ tôm đánh bài.
Khoan khoan chân trở gót hài,
Qua Hàng Thuốc Bắc sang chơi Hàng Đồng.
Biết bao của báu lạ lùng,
Kìa đồ bát bửu, nọ lồng ấp hương
Hàng Bừa, Hàng Cuốc ngổn ngang.
Trở về Hàng Cót dạo sang Hàng Gà
Bát Ngô, Hàng Sắt xem qua,
Hàng Vải, Hàng Thiếc lại ra Hàng Hòm.
Ở đâu nghe tiếng om om,
Trống chầu rạp hát thòm thòm vui thay.
Hàng Da, Hàng Nón ai bày,
Bên kia Hàng Điếu, bên này Hàng Bông.
Ngã tư Cấm Chỉ đứng trông,
Qua Hàng Thợ Nhuộm thẳng rong Hàng Tàn
Đoái xem phong cảnh bàng hoàng,
Bút hoa dở viết chép bàn mấy câu.
Trải qua một cuộc bể dâu
Nào người đế bá, công hầu là ai?
Trong các sự tích về tiên ở Thăng Long, sự tích ở cửa Nam là rõ nét nhất ở các đền, chùa và quán có tích về một nàng tiên luôn biến mất ở cửa Đại Hưng, như
– Chùa Tiên Tích, đường L ê Duẩn, Hoàn Kiếm
– Đền Vọng Tiên, 120 Hàng Bông, Hoàn Kiếm
Chùa Bà Ngô, Ngọc Hồ tự tức Chùa Ngọc Hồ số 128 phố Nguyễn Khuyến (gần chùa Bà Nành).
– Chùa Bà Nành (Tiên Phúc tự) ở số nhà 27 phố Văn Miếu, một cổng khác nằm tại số 154 phố Nguyễn Khuyến.
– Bích Câu Đạo Quán nơi có sự tích về Trần Tú Uyên và tiên Giáng Kiều
CHÙA TIÊN TÍCH
Về niên đại khởi dựng và tên gọi của ngôi chùa, có truyền thuyết cho rằng vào đời nhà Lý, một hoàng tử đi chơi bị lạc đường, được tiên đưa về cung, nên nhà vua sai dựng chùa để tạ ơn. Truyền thuyết khác lại kể, vào đầu đời Lê Cảnh Hưng (1740 – 1786), nhân vua đi chơi ở hồ Kim Âu, thấy có nàng tiên hiện ra gần hồ, ông bèn cho xây một ngôi chùa ở nơi tiên hiện, gọi là chùa Tiên Tích (vết tích người tiên).
Kính Phủ – Nguyễn Án đã ghi chép tỉ mỉ về ngôi chùa này trong Tang thương ngẫu lục: “Chùa Tiên Tích nằm ở phía nam kinh thành, đời chúa Trịnh có cho sửa chữa lại. Người ở kinh thành khuân tre, gỗ, vác xẻng cuốc, bôn tẩu ở đường sá mấy năm công việc mới xong. Chùa rộng lớn, nóc chồng cửa kép. San bày tám miếng đá vuông, cao chừng hai thước, trên bày những chậu lan, gió thổi hay hay, thơm đưa phưng phức. Chùa đằng sau dựa vào đường cái, đằng trước trông xuống một con ngòi nước trong. Cây tháp ở phía hữu cao chín tầng, bốn góc đeo chuông, trang sức bằng những nét vàng xanh rực rỡ. Từ đằng phía tây đi về phía nam vào đến chùa, đường đi quanh co đều lát đá cả. Con ngòi cừ ngoằn nghèo chảy qua một cái hồ. Hồ sâu mà rộng, nước rất trong, mùa hè hoa sen nở nhiều, mùi hương bay ra xa mấy dặm. Men bờ hồ vào đến bờ cừ, chỗ cây chỗ đá chen lẫn nhau. Phía trước chùa về phía tả, chỗ nước cừ chảy thông ra hồ có bắc cái cầu, dưới cầu, ghe thuyền đi lại được. Trên cầu dựng thành mái nhà, khắc vẩy rồng lên những tấm ván. Bên cạnh cầu mấy chục bước, phía nam cừ và phía bắc hồ, dựng một cái ly cung để làm chỗ vua chúa ngự chơi, trồng sáu, bảy cây muỗm, cây trắc và cây thông, cành lá chi chít đến nỗi ánh mặt trời không lọt xuống được. Dưới đất bày trâu đá, hươu đá mỗi thứ một con châu đầu vào nhau, chế tạo rất tinh tế và hoạt động”.
ĐỀN VỌNG TIÊN
Đền Vọng tiên ở địa chỉ 120 Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm nằm sâu trong một con ngõ nhỏ.
Đền có tên là Vọng Tiên vì đây nơi ghi dấu huyền thoại vua Lê Thánh Tông gặp tiên. huyện kể rằng có một lần vua này đi vãn cảnh chùa Ngọc Hồ bắt gặp một thiếu nữ xinh đẹp. Vua mời lên xe loan đưa về cung. Nhưng mới đi tới cửa Đại Hưng thì cô biến mất. Vua bèn sai lập đền ngay ở chỗ đó gọi là lầu Vọng Tiên. Đến đời Gia Long xây thành mới, cửa Đại Hưng và lầu này bị dỡ bỏ. Về sau lầu này được dời đến thôn Bát Hạ, mà bây giờ là phố Hàng Bông
CHÙA BÀ NÀNH

Chùa Bà Nành (Tiên Phúc tự) ở số nhà 27 phố Văn Miếu, một cổng khác nằm tại số 154 phố Nguyễn Khuyến.

Có hai truyền thuyết về việc xây ngôi chùa này.
–Truyền thuyết thứ nhất : Chùa trước kia được dựng lên để thờ một bà cụ bán hàng không rõ tên tuổi. Bà cụ thường bán nước chè, đậu nành cho các học trò Trường Quốc Tử Giám. Lại có tư liệu nói thêm là chùa dựng và đầu triều Lê, thế kỷ XV trên nền quán hàng nước của cụ già ấy và có lần vua Lê Thánh Tông (l460-1497) đến thăm Quốc Tử Giám đã ghé vào vãn cảnh chùa.
– Truyền thuyết thứ hai : Từ đầu thế kỷ XIII, vua nhà Lý đã cho dựng ngôi chùa này. Đến đời nhà Trần thì chùa đổi tên là Tiên Phúc vì theo lời đồn đại trong dân gian, thỉnh thoảng người ta vẫn thấy có nàng tiên xuất hiện thướt tha trước sân chùa. Khi vua Lê Thánh Tông đến chùa ngắm cảnh thì bỗng từ trên gác chuông thấy hiện ra một người con gái đẹp ngâm nga mấy vần thơ “Ở đây mến cảnh, mến thầy. Tuy vui đạo Phật, chưa khuây lòng người”. Nhà vua đã cùng nàng tiên xướng họa, sau đó, nàng tiên biến mất tại đình Quảng Văn.

CHÙA BÀ NGÔ

Chùa Bà Ngô, Ngọc Hồ tự tức Chùa Ngọc Hồ số 128 phố Nguyễn Khuyến (gần chùa Bà Nành).

Tên chùa :

– Theo sách “La thành cổ tích vịnh” thì nguyên tại đây xưa có một gò hình cái bầu đựng rượu (tửu hồ), năm Kiến Gia thứ 8 (1281), Lý Huệ Tông đã cho dựng trên gò ngôi chùa Ngọc Hồ (bầu bằng ngọc, đẹp và quý như ngọc). Người dân địa phương lại có cách giải thích khác là chùa vốn có một giếng nước rất trong không bao giờ cạn, là một thứ lễ vật tinh khiết bậc nhất dâng lên Tam Bảo. Giếng được bảo vệ như vật báu, được xây và có nắp đậy, hiện nay ở dưới mé tam quan của chùa, coi như bầu nước tinh khiết, quý giá như ngọc nên thành tên chùa.

– Cũng theo sách này, vào thời nhà Lê, có một người con gái đẹp lấy chồng là một nhà buôn người Hoa giàu có, bà đã bỏ tiền ra xây dựng lại ngôi chùa này to đẹp hơn chùa cũ, do đó mới có tên Bà Ngô (Ngô Khách chỉ người Tàu).

Sự tích Lê Thánh Tông gặp Tiên :
– Có một lần Lê Thánh Tông thăm chùa, thấy trên gác chuông có bóng người đẹp ngâm 2 câu thơ:
Ở đây mến cảnh mến thầy
Tuy vui đạo Phật chưa khuây lòng người.
– Cũng có thuyết nói rằng nhà vua thấy một thiếu nữ xinh tươi cầm một cành mẫu đơn ngâm mấy câu như sau:
Bà Ngô phong cảnh xinh thay
Đố ai cắt mối sầu này cho xong
Bao giờ về tới ngự cung
Thì ta sẽ dải tấm lòng cho hay
– Vua bèn gặp hỏi chuyện và muốn cùng nàng xướng họa. Nàng nhường vua làm trước, lấy đề bằng 2 câu thơ nàng vừa ngâm. Vua làm bài thơ Đường luật như sau:
“Ngẫm sự trần duyên khéo cực cười,
Sắc không, tuy Bụt, ấy lòng người,
Chày kình một tiếng tan niềm tục,
Hồn bướm năm canh lẩn sự đời,
Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn,
Nguồn ân muôn trượng chửa khơi vơi.
Nào nào cực lạc là đâu tá?
Cực lạc là đây chín rõ mười”.
– Ni đáp lại ngay: “Hai câu thực và luận còn thiếu ý lại chưa thanh, nên sửa là:
Gió thông đưa kệ tan niềm tục
Hồn bướm mơ tiên lẩn sự đời”.
– Vua rất phục, mời nàng lên kiệu về cung, nhưng đến cửa Đại Hưng thì biến mất. Vua cho là tiên giáng trần, dựng lầu Vọng Tiên ở đó để tưởng nhớ.
– Một đêm nhà vua làm mơ thấy Tiên hiện tới tự tình và nói ở nơi kinh thành lâu nay thường xảy ra tai dịch là bởi có con Thạch tinh ở dưới cái ao ngay trước quán, đã hóa ra một con gà bay đi tác quái khắp Kinh thành, phải kịp trừ ngay mới khỏi sinh tra hậu họa lớn. Khi tỉnh dậy, nhà vua cho đào ngay ở giữa ao trước quán sâu tới 3 thước, đất đỏ như máu, thấy một hòn đá, bèn đập vỡ tan, vứt ra ngoài sông rồi lấp phẳng ao đi. Từ đó kinh thành rất yên ổn.

BÍCH CÂU ĐẠO QUÁN

– Bích Câu Đạo Quán ở phố Cát Linh, quận Đống Đa, Hà Nội, trên một gò cổ tên là Gò Rùa, của làng An Trạch
– Xưa kia là nơi các đạo sĩ thường tới đây luyện phép và thờ cúng tiên ông Trần Tú Uyên, một danh y tài giỏi, có công giúp vua Lê Thánh Tông dẹp giặc.
– Theo sử sách ghi lại, xưa kia trên gò cao đầu phố Bích Câu có một chàng thư sinh tên là Trần Tú Uyên dựng quán đọc sách, làm thơ. Một hôm chàng cùng bạn đi dự hội tình cờ gặp một cô gái má hồng đào, gương mặt trái xoan và mái tóc dài liếc mắt nhìn chàng như một tia chớp rồi bỏ đi. Tú Uyên ngơ ngẩn rảo chân bước theo bóng hồng. Bất ngờ, khi tới khu đình Quảng Văn (Cửa Nam) thì chàng không thấy bóng người đẹp đâu nữa.Xem hội về, trong lòng Tú Uyên không khỏi tương tư. Mấy hôm sau, chàng đi chợ Cầu Đông, thấy một bà lão bán bức tranh tố nữ với dáng vẻ yêu kiều như cô gái trong ngày hội chùa hôm trước nên đã mua về. Tú Uyên coi mỹ nữ trong tranh như là người thật, ngày ngày ngắm nhìn, trò chuyện. Đến ăn cơm, uống nước chàng cũng mời cô gái trong tranh ăn uống cùng. Kể từ đó, trong túp lều cũng xảy ra nhiều chuyện lạ kỳ, có những hôm đi ra ngoài trở về, Tú Uyên đã bất ngờ thấy có người dọn sẵn cơm canh. Không khỏi nghi hoặc, một hôm chàng giả vờ ra ngoài rồi đứng nép bên vách, bất ngờ khi thấy trong bức tranh bước ra một cô gái dịu hiền, thoăn thoắt làm mọi việc nội trợ. Cô gái bị phát hiện nên đành thú thực mình là tiên hạ phàm, tên Giáng Kiều. Từ đây, Giáng Kiều cùng Tú Uyên bốc thuốc cứu người, tu tiên học đạo, tạo phúc cho dân trong vùng. Hai vợ chồng sống với nhau hạnh phúc và sinh được một con trai. Một thời gian sau, cả nhà Tú Uyên đều tu hành đắc đạo nên đã bay về trời.
– Vì công lao cứu dân độ thế, Tú Uyên được vua Lê Thánh Tông truy phong danh hiệu “An Quốc chân nhân” cho phối thờ vào chùa Đắc Quốc, từ đây chùa cũng đổi tên thành chùa An Quốc. Trong thời Lê sơ, khi Đạo giáo thịnh hành, chùa An Quốc được xây dựng mở rộng thành cụm kiến trúc tâm linh bản sắc Đạo giáo, đổi tên thành Bích Câu đạo quán. Bích Câu Đạo Quán còn là nơi tao nhân mặc khách và các quan lại, nho sinh ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám tụ hội để dâng, vịnh thơ phú. Thế kỷ XVII, đạo giáo suy thoái, nhiều đạo quán được chuyển thành đền, chùa. Vì thế, trong khuôn viên Bích Câu Đạo Quán hiện có cả chùa và điện thờ Mẫu. Sau khi chuyển thành đình Bích Câu, người dân làng An Trạch vẫn thờ phụng Thành hoàng làng Trần Tú Uyên.

Chùa Bà Ngô cũng là bối cảnh cho câu chuyện Tú Uyên gặp Giáng Kiều trong truyện thơ Bích Câu kỳ ngộ. Chàng học trò nghèo Trần Tú Uyên một hôm đi xem hội làm chay ở chùa Ngọc Hồ

Ngọc Hồ có đám chay tăng,
Nức nô cảnh Phật, tưng bừng hội xuân.
Dập dìu tài tủ giai nhân,
Ngổn ngang mã tích xa trần thiếu ai.

Chiều đến, sắp về, Tú Uyên nhặt được một chiếc “lá hồng” có đề một câu thơ. Chàng định họa lại thì thấy một thiếu nữ tuyệt đẹp trước cửa tam quan, liền đi theo, nhưng đình Quảng Văn thì thiếu nữ bỗng biến mất khiến cho chàng tương tư sầu muộn.

Các sự tích trên đã được Trần Bá Lãm (1757-1815) – Tiến sĩ khoa Đinh Mùi (1787) đề thơ như sau:

Vịnh Ngọc Hồ tự

Địa bất bồng lai ẩn trích tiên,
Y hi hoàn bội bạng hoa biên.
Đại Hưng môn ngoại tiên tung diểu,
Nan mịch Đào nguyên nhận túc duyên

Dich:

Đất chẳng bồng lai náu trích tiên,
Bên hoa văng vẳng xuyến vòng rền.
Đại Hưng ngoài cửa tiên mờ dấu
Khó kiếm nguồn Đào nhận túc duyên.

Chia sẻ:
Scroll to Top