
“Vợ hiền hoà, nhà hướng nam”. Hoàng là chỗ ở và chỗ ngồi của vua, nên cũng như mọi ngôi nhà Việt, đều rất coi trọng hướng nam :

Vì thành Thăng Long có nhiều lớp vòng thành và được sửa chữa qua nhiều thời kỳ nên thực ra có nhiều cửa Nam
Trải xem phong cảnh khắp thành Thăng Long.
Phố ngoài bao bọc thành trong,
Cửa Nam, Giám, Bắc, Tây, Đông rõ ràng.
Ba mươi sáu mặt phố phường,
Hàng Giầy, Hàng Bạc, Hàng Ngang, Hàng Đào.
Người đài các, kẻ thanh tao,
Qua hàng thợ Tiện lại vào Hàng Gai.
Hàng Thêu, Hàng Trống, Hàng Bài,
Hàng Khay trở gót ra chơi Tràng Tiền
Nhác trông chẳng khác động tiên,
Trên đồn cờ kéo, dưới thuyền buồm giăng.
Phong quang lịch sự đâu bằng,
Dập dìu võng lọng, tưng bừng ngựa xe.
Hàng Vôi sang phố Hàng Bè,
Qua tòa Thương Chính trở về Đồng Xuân.
Trải qua Hàng Giấy dần dần,
Cung đàn nhịp phách nên xuân bốn mùa.
Cầu Đông vang tiếng chợ Chùa,
Trăng soi giá nến, gió lùa khói hương.
Mặt ngoài có phố Hàng Đường,
Hàng Mây, Hàng Mã, Hàng Buồm, Hàng Chum.
Tiếng Ngô, tiếng Nhắng um um,
Lên lầu xem điếm tổ tôm đánh bài.
Khoan khoan chân trở gót hài,
Qua Hàng Thuốc Bắc sang chơi Hàng Đồng.
Biết bao của báu lạ lùng,
Kìa đồ bát bửu, nọ lồng ấp hương
Hàng Bừa, Hàng Cuốc ngổn ngang.
Trở về Hàng Cót dạo sang Hàng Gà
Bát Ngô, Hàng Sắt xem qua,
Hàng Vải, Hàng Thiếc lại ra Hàng Hòm.
Ở đâu nghe tiếng om om,
Trống chầu rạp hát thòm thòm vui thay.
Hàng Da, Hàng Nón ai bày,
Bên kia Hàng Điếu, bên này Hàng Bông.
Ngã tư Cấm Chỉ đứng trông,
Qua Hàng Thợ Nhuộm thẳng rong Hàng Tàn
Đoái xem phong cảnh bàng hoàng,
Bút hoa dở viết chép bàn mấy câu.
Trải qua một cuộc bể dâu
Nào người đế bá, công hầu là ai?
Chùa Bà Nành (Tiên Phúc tự) ở số nhà 27 phố Văn Miếu, một cổng khác nằm tại số 154 phố Nguyễn Khuyến.
Có hai truyền thuyết về việc xây ngôi chùa này.
–Truyền thuyết thứ nhất : Chùa trước kia được dựng lên để thờ một bà cụ bán hàng không rõ tên tuổi. Bà cụ thường bán nước chè, đậu nành cho các học trò Trường Quốc Tử Giám. Lại có tư liệu nói thêm là chùa dựng và đầu triều Lê, thế kỷ XV trên nền quán hàng nước của cụ già ấy và có lần vua Lê Thánh Tông (l460-1497) đến thăm Quốc Tử Giám đã ghé vào vãn cảnh chùa.
– Truyền thuyết thứ hai : Từ đầu thế kỷ XIII, vua nhà Lý đã cho dựng ngôi chùa này. Đến đời nhà Trần thì chùa đổi tên là Tiên Phúc vì theo lời đồn đại trong dân gian, thỉnh thoảng người ta vẫn thấy có nàng tiên xuất hiện thướt tha trước sân chùa. Khi vua Lê Thánh Tông đến chùa ngắm cảnh thì bỗng từ trên gác chuông thấy hiện ra một người con gái đẹp ngâm nga mấy vần thơ “Ở đây mến cảnh, mến thầy. Tuy vui đạo Phật, chưa khuây lòng người”. Nhà vua đã cùng nàng tiên xướng họa, sau đó, nàng tiên biến mất tại đình Quảng Văn.
CHÙA BÀ NGÔ
Chùa Bà Ngô, Ngọc Hồ tự tức Chùa Ngọc Hồ số 128 phố Nguyễn Khuyến (gần chùa Bà Nành).
Tên chùa :
– Theo sách “La thành cổ tích vịnh” thì nguyên tại đây xưa có một gò hình cái bầu đựng rượu (tửu hồ), năm Kiến Gia thứ 8 (1281), Lý Huệ Tông đã cho dựng trên gò ngôi chùa Ngọc Hồ (bầu bằng ngọc, đẹp và quý như ngọc). Người dân địa phương lại có cách giải thích khác là chùa vốn có một giếng nước rất trong không bao giờ cạn, là một thứ lễ vật tinh khiết bậc nhất dâng lên Tam Bảo. Giếng được bảo vệ như vật báu, được xây và có nắp đậy, hiện nay ở dưới mé tam quan của chùa, coi như bầu nước tinh khiết, quý giá như ngọc nên thành tên chùa.
– Cũng theo sách này, vào thời nhà Lê, có một người con gái đẹp lấy chồng là một nhà buôn người Hoa giàu có, bà đã bỏ tiền ra xây dựng lại ngôi chùa này to đẹp hơn chùa cũ, do đó mới có tên Bà Ngô (Ngô Khách chỉ người Tàu).
Sự tích Lê Thánh Tông gặp Tiên :
– Có một lần Lê Thánh Tông thăm chùa, thấy trên gác chuông có bóng người đẹp ngâm 2 câu thơ:
Ở đây mến cảnh mến thầy
Tuy vui đạo Phật chưa khuây lòng người.
– Cũng có thuyết nói rằng nhà vua thấy một thiếu nữ xinh tươi cầm một cành mẫu đơn ngâm mấy câu như sau:
Bà Ngô phong cảnh xinh thay
Đố ai cắt mối sầu này cho xong
Bao giờ về tới ngự cung
Thì ta sẽ dải tấm lòng cho hay
– Vua bèn gặp hỏi chuyện và muốn cùng nàng xướng họa. Nàng nhường vua làm trước, lấy đề bằng 2 câu thơ nàng vừa ngâm. Vua làm bài thơ Đường luật như sau:
“Ngẫm sự trần duyên khéo cực cười,
Sắc không, tuy Bụt, ấy lòng người,
Chày kình một tiếng tan niềm tục,
Hồn bướm năm canh lẩn sự đời,
Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn,
Nguồn ân muôn trượng chửa khơi vơi.
Nào nào cực lạc là đâu tá?
Cực lạc là đây chín rõ mười”.
– Ni đáp lại ngay: “Hai câu thực và luận còn thiếu ý lại chưa thanh, nên sửa là:
Gió thông đưa kệ tan niềm tục
Hồn bướm mơ tiên lẩn sự đời”.
– Vua rất phục, mời nàng lên kiệu về cung, nhưng đến cửa Đại Hưng thì biến mất. Vua cho là tiên giáng trần, dựng lầu Vọng Tiên ở đó để tưởng nhớ.
– Một đêm nhà vua làm mơ thấy Tiên hiện tới tự tình và nói ở nơi kinh thành lâu nay thường xảy ra tai dịch là bởi có con Thạch tinh ở dưới cái ao ngay trước quán, đã hóa ra một con gà bay đi tác quái khắp Kinh thành, phải kịp trừ ngay mới khỏi sinh tra hậu họa lớn. Khi tỉnh dậy, nhà vua cho đào ngay ở giữa ao trước quán sâu tới 3 thước, đất đỏ như máu, thấy một hòn đá, bèn đập vỡ tan, vứt ra ngoài sông rồi lấp phẳng ao đi. Từ đó kinh thành rất yên ổn.
BÍCH CÂU ĐẠO QUÁN
– Bích Câu Đạo Quán ở phố Cát Linh, quận Đống Đa, Hà Nội, trên một gò cổ tên là Gò Rùa, của làng An Trạch
– Xưa kia là nơi các đạo sĩ thường tới đây luyện phép và thờ cúng tiên ông Trần Tú Uyên, một danh y tài giỏi, có công giúp vua Lê Thánh Tông dẹp giặc.
– Theo sử sách ghi lại, xưa kia trên gò cao đầu phố Bích Câu có một chàng thư sinh tên là Trần Tú Uyên dựng quán đọc sách, làm thơ. Một hôm chàng cùng bạn đi dự hội tình cờ gặp một cô gái má hồng đào, gương mặt trái xoan và mái tóc dài liếc mắt nhìn chàng như một tia chớp rồi bỏ đi. Tú Uyên ngơ ngẩn rảo chân bước theo bóng hồng. Bất ngờ, khi tới khu đình Quảng Văn (Cửa Nam) thì chàng không thấy bóng người đẹp đâu nữa.Xem hội về, trong lòng Tú Uyên không khỏi tương tư. Mấy hôm sau, chàng đi chợ Cầu Đông, thấy một bà lão bán bức tranh tố nữ với dáng vẻ yêu kiều như cô gái trong ngày hội chùa hôm trước nên đã mua về. Tú Uyên coi mỹ nữ trong tranh như là người thật, ngày ngày ngắm nhìn, trò chuyện. Đến ăn cơm, uống nước chàng cũng mời cô gái trong tranh ăn uống cùng. Kể từ đó, trong túp lều cũng xảy ra nhiều chuyện lạ kỳ, có những hôm đi ra ngoài trở về, Tú Uyên đã bất ngờ thấy có người dọn sẵn cơm canh. Không khỏi nghi hoặc, một hôm chàng giả vờ ra ngoài rồi đứng nép bên vách, bất ngờ khi thấy trong bức tranh bước ra một cô gái dịu hiền, thoăn thoắt làm mọi việc nội trợ. Cô gái bị phát hiện nên đành thú thực mình là tiên hạ phàm, tên Giáng Kiều. Từ đây, Giáng Kiều cùng Tú Uyên bốc thuốc cứu người, tu tiên học đạo, tạo phúc cho dân trong vùng. Hai vợ chồng sống với nhau hạnh phúc và sinh được một con trai. Một thời gian sau, cả nhà Tú Uyên đều tu hành đắc đạo nên đã bay về trời.
– Vì công lao cứu dân độ thế, Tú Uyên được vua Lê Thánh Tông truy phong danh hiệu “An Quốc chân nhân” cho phối thờ vào chùa Đắc Quốc, từ đây chùa cũng đổi tên thành chùa An Quốc. Trong thời Lê sơ, khi Đạo giáo thịnh hành, chùa An Quốc được xây dựng mở rộng thành cụm kiến trúc tâm linh bản sắc Đạo giáo, đổi tên thành Bích Câu đạo quán. Bích Câu Đạo Quán còn là nơi tao nhân mặc khách và các quan lại, nho sinh ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám tụ hội để dâng, vịnh thơ phú. Thế kỷ XVII, đạo giáo suy thoái, nhiều đạo quán được chuyển thành đền, chùa. Vì thế, trong khuôn viên Bích Câu Đạo Quán hiện có cả chùa và điện thờ Mẫu. Sau khi chuyển thành đình Bích Câu, người dân làng An Trạch vẫn thờ phụng Thành hoàng làng Trần Tú Uyên.
Chùa Bà Ngô cũng là bối cảnh cho câu chuyện Tú Uyên gặp Giáng Kiều trong truyện thơ Bích Câu kỳ ngộ. Chàng học trò nghèo Trần Tú Uyên một hôm đi xem hội làm chay ở chùa Ngọc Hồ
Ngọc Hồ có đám chay tăng,
Nức nô cảnh Phật, tưng bừng hội xuân.
Dập dìu tài tủ giai nhân,
Ngổn ngang mã tích xa trần thiếu ai.
Chiều đến, sắp về, Tú Uyên nhặt được một chiếc “lá hồng” có đề một câu thơ. Chàng định họa lại thì thấy một thiếu nữ tuyệt đẹp trước cửa tam quan, liền đi theo, nhưng đình Quảng Văn thì thiếu nữ bỗng biến mất khiến cho chàng tương tư sầu muộn.
Các sự tích trên đã được Trần Bá Lãm (1757-1815) – Tiến sĩ khoa Đinh Mùi (1787) đề thơ như sau:
Vịnh Ngọc Hồ tự
Địa bất bồng lai ẩn trích tiên,
Y hi hoàn bội bạng hoa biên.
Đại Hưng môn ngoại tiên tung diểu,
Nan mịch Đào nguyên nhận túc duyên
Dich:
Đất chẳng bồng lai náu trích tiên,
Bên hoa văng vẳng xuyến vòng rền.
Đại Hưng ngoài cửa tiên mờ dấu
Khó kiếm nguồn Đào nhận túc duyên.