Lữ Gia tên hiệu là Bảo Công là Thừa tướng của bốn đời vua nhà Triệu nước Nam Việt. Ông là người nắm chính trường nước Nam Việt những năm cuối và đã anh dũng hy sinh trước cuộc xâm lăng của đế quốc Hán.
Theo “Việt Nam tiền cổ vĩ nhân liệt truyện”, tác phẩm khuyết danh xuất hiện vào khoảng cuối thời Nguyễn thì Lữ Gia quê ở huyện Lôi Dương phủ Thiệu Thiên trấn Thanh Hoa, nay là huyện Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa.
Trong “Cổ Lôi ngọc phả truyền thư” thì quê hương Lữ Gia là Tiên Lữ thuộc bộ Vũ Ninh nước Nam Việt của Triệu Vũ Đế – một triều đại của nước ta. Mẹ là Trần Thị Lan ở Hương Trang Nghiêm huyện Thiên Bản (nay là Vụ Bản – Nam Định).
Về gia đình, Ngài có 3 anh em, thừa tướng là trưởng, thứ là Lữ Nhạc và Lữ Cường. Có tài liệu cho rằng thừa tướng có cha là hào trưởng Lữ Tạo, mẹ là Trương Vĩ con gái hào trưởng Vũ Ninh (Bắc Ninh ngày nay).
Lữ Gia là thần đồng, đầy năm tuổi đã nói sõi, tám tuổi thông cả Bách gia chư tử, Binh thư nên gọi là Bảo. Hào trưởng họ Hàn hung nghịch, tàn bạo thấy Lữ Gia chí khí hơn người nên muốn thu nạp làm tay chân nhưng Lữ Gia không chịu khuất phục nên đã thâm thù hãm hại.
Biết không thể sống được ở quê, toàn gia quyến đã chuyển đến huyện Thiên Thi. Khi đến trang Nam Trì (thuộc xã Đặng Lễ huyện Ân Thi, Hưng Yên ngày nay) thấy khu đất nơi ngã ba sông Kim Ngưu, Nguyệt Đức, khe nước chảy vòng chín khúc, thế đất Phượng Hoàng Hàm thư, nhân dân hiền lương nên ở lại lập quán, hành nghề lang y giúp dân.
Lữ Gia nhận một người Nam Trì là Nguyễn Danh Lang làm em kết nghĩa (gọi là Lang Công). Sau Lữ Gia về quê và kết hôn với công chúa Lâu nương con quân trưởng Hùng Lữ, một chi phái Hùng Vương lánh nạn ở châu Ô Lý.
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, Lữ Gia là Tể tướng bốn đời vua Triệu, từ Triệu Văn Vương, Triệu Minh Vương , Triệu Ai vương cho đến Triệu Dương Vương .
Thừa tướng văn võ song toàn được Triệu Văn Vương tín nhiệm.
Khi Triệu Minh Vương lên ngôi thì lấy Lữ Gia làm thái phó năm 124 TCN. Lữ Gia tuổi đã cao làm tướng trải qua 3 triều, họ hàng thân thuộc làm trưởng lại hơn 70 người. Con trai đều lấy con gái vua, con gái thì gả cho em vua và người trong tôn thất, cùng thông gia với Thương Ngô Vương Triệu Quang. Ở trong nước ông rất được lòng dân hơn cả vua, các quan đại thần đều kính nể.
Năm 113 TCN, vua Triệu Minh Vương băng hà. Trước đó, Minh Vương Triệu Anh Tề đã có con lớn là Triệu Kiến Đức với một bà vợ người Việt, nhưng vì yêu Cù Hậu là người Hán nên lập con nhỏ của Cù Hậu là Triệu Hưng lên thay. Hưng nối ngôi, tức là Triệu Ai Vương.
Trước kia, Thái hậu chưa lấy Minh Vương, đã từng thông dâm với An Quốc Thiếu Quý người Bá Lăng. Năm ấy nhà Hán thấy nước Nam Việt có vua nhỏ nên sai An Quốc Thiếu Quý sang dụ Ai Vương và Thái hậu vào chầu, như đối với các chư hầu nhà Hán, lại sai biện sĩ là bọn Gián nghị đại phu Chung Quân tuyên dụ, dũng sĩ là bọn Ngụy Thần giúp việc, vệ úy Lộ Bác Đức đem quân đóng ở Quế Dương để đợi sứ giả.
Triệu Ai Vương còn ít tuổi, Cù Thái hậu là người Hán, Thiếu Quý đến, lại tư thông. Người trong nước biết, phần nhiều bất bình không theo Thái hậu. Thái hậu sợ, muốn dựa uy nhà Hán, nhiều lần khuyên Triệu Hưng và các quan xin nội phụ nhà Hán, bèn nhờ sứ nhà Hán dâng thư, xin theo như các chư hầu của nhà Hán, cứ 3 năm một lần vào chầu, triệt bỏ cửa khẩu ở biên giới. Vua Hán bằng lòng, ban cho Ai Vương và Thừa tướng Lữ Gia ấn bằng bạc và các ấn nội sử, trung úy, thái phó, còn các chức khác được tự đặt lấy.
Vua còn ít tuổi , trọng trách giữ nước đặt nặng lên vai thừa tướng Lữ Gia. Trong nước Thái Hậu muốn lệ thuộc vào nhà Hán. Vua Hán cho thiếu úy sang dụ Nam Việt về chầu nhà Hán. Thiếu úy là tình nhân cũ của Cù Thị đến khi sang Nam Việt gặp nhau lại tư thông với nhau rồi dỗ dành Ai Vương đem nước Nam Việt về dâng cho nhà Hán. Hán đế lại sai sứ ban riêng cho Thừa tướng Lữ Gia một quả ấm bạc, bào tía, đai ngọc thao xanh để mua chuộc.
Lộ Bác Đức tâu với Vua Hán: nước Nam Việt chỉ có Bảo Công (Lữ Gia), Lang Công (Nguyễn Danh Lang) là hai tướng tài, mưu lược trí dũng như Thánh như Thần, quân ta khó mà thắng được. Kế tốt nhất là dùng mưu chứ không thể dùng vũ lực.
Lộ Bác Đức bèn sai quân mang nghìn nén vàng đến đút lót bọn cận thần của Triêu Ai Vương, dùng kế ly gián vua tôi. Bọn gian thần Ngô Quyên, Lý Ước bị mua chuộc đã tâu Triệu Ai vương rằng: Hai tướng Bảo, Lang bắt được tướng Hán lại tha không giết là vì có âm mưu phản quốc, giảng hoà với nhà Hán nên mẹ con Ai Vương giáng chức Nguyễn Danh Lang làm Huyện lệnh Thiên Thi, Lữ Gia làm Huyện lệnh Phong Châu. Nguyễn Danh Lang về đến quê thì mất, còn Lữ Gia về Phong Châu xây thành đắp lũy chống Hán.
Đến năm 112 TCN vua và thái hậu sửa sang hành trang của cải vào chầu vua Hán, thừa tướng Lữ Gia can ngăn mà không được. Ông nhiều lần không vào chầu mà thường cáo ốm. Không tiếp sứ giả nhà Hán, các sứ giả đều chú ý đến thừa tướng, nhưng chưa thể giết được. Vua và thái hậu cũng sợ Lữ Gia khởi sự trước muốn nhờ sứ giả nhà Hán dùng mưu giết Lữ Gia nên mở tiệc mời quan đại thần cùng sứ giả, Lữ Gia hầu rượu. Em Lữ Gia là tướng Lữ Cường đem quân đóng ở ngoài cung.
Khi uống rượu Thái hậu bảo Lữ Gia rằng : “ Nam Việt nội thuộc Trung Quốc là lợi cho nước nhà mà tướng quân lại không bằng lòng vì cớ gì ?”. Sứ giả còn đang hoài nghi chần chừ, đã thấy Lữ Gia lập tức đứng dậy ra đi. Thái Hậu Cù Thị giận lắm muốn lấy giáo đánh Lữ Gia thì vua Ai Vương ngăn lại. Lữ Gia bèn ra chia lấy quân của em là tướng Lữ Cường rồi cáo ốm, từ đây Lữ Gia không chịu gặp vua và sứ giả nhà Hán cùng các đại thần.
Vua Ai Vương không có ý giết Lữ Gia. Lữ Gia cũng biết vì thế mấy tháng trời không hành động gì, chỉ có một mình Thái Hậu muốn giết Lữ Gia nhưng thế của Thái Hậu không giết nổi.Hán đế nghe tin Lữ Gia không tuân lệnh mà vua và Thái Hậu đơn chiếc yếu đuối không chế ngự được, sứ giả thì nhút nhát không quyết đoán, lại thấy rằng Vua và Thái hậu đã nội phụ rồi, chỉ còn Lữ Gia không nghe muốn sai Trang Sâm đem 2000 người sang sứ. Trang Sâm nói : “ Lấy sự hòa hiếu mà sang thì vài người cũng đủ rồi, lấy võ lực sang thì 2000 người không làm gì được” Sâm từ chối không nhận.
Hán đế bèn bãi chức Trang Sâm. Tướng Tề Bắc cũ là Hán Thiên Thu hăng hái nói : ‘Một nước Việt cỏn con lại có Vương và Thái hậu làm nội ứng chỉ một mình thừa tướng làm loạn tôi xin cấp 300 dũng sỹ thế nào cũng chém được đầu Lữ Gia báo về.” Bấy giờ Hán Thiên Thu và em Cù Thái Hậu là Cù Lạc đem 2000 người tiến vào đất Nam Việt.
Thừa tướng Lữ Gia hạ lệnh trong nước rằng: “ Vua còn nhỏ tuổi, Thái hậu vốn là người Hán cùng với sứ giả nhà Hán dâm loạn, muốn nội phụ đem hết đồ châu báu của Tiên Vương dâng cho nhà Hán để nịnh, đem nhiều người đi theo đến Trường An bắt bán làm đầy tớ, chỉ nghĩ đến mối lợi một thời chứ không nghĩ đến xã tắc và lo gì đến mưu kế muôn đời”.
Sau đó, Ông cùng với em đem quân đánh, giết Triệu Ai Vương và Cù thái hậu, cùng tất cả sứ giả nhà Hán, rồi sai người đi báo cho Triệu Quang ở Thương Ngô và các quận ấp, lập con trưởng của Triệu Minh Vương là Thuật Dương hầu Kiến Đức làm vua, tức là Triệu Thuật Dương Vương.
Cơ nghiệp Nam Việt bị lung lay là do hoàng hậu người Hán Cù Thị Hậu gây ra. Nhưng trọng trách giờ lại do thừa tướng Lữ Gia là người gánh vác giang sơn.
Bấy giờ là mùa Đông tháng 10 năm 112 TCN thừa tướng Lữ Gia đã lập Kiến Đức lên ngôi vua Nam Việt. Quân của Hàn Thiên Thu đã kéo vào cõi đánh phá một số ấp nhỏ.
Hàn Thiên Thu còn 40 dặm đến Phiên Ngung thì bị Lữ Gia xuất quân giết. Ông sai người đem sứ tiết của nhà Hán đóng vào hòm để trên cửa ải và phát binh giữ chỗ hiểm yếu.
Vua Hán nghe tin, sai Phục ba tướng quân Lộ Bác Đức xuất phát từ Quế Dương, Lâu thuyền tướng quân Dương Bộc xuất phát từ Dự Chương, Qua Thuyền tướng quân Nghiêm xuất phát từ Linh Lăng. Hạ lại tướng quân Giáp đem quân xuống Thương Ngô. Trì Nghĩa hầu Quý đem quân Dạ Lang xuống sông Tường Kha, đều hội cả ở Phiên Ngung.
Tất cả 7 đạo quân đều hợp tại Phiên Ngung số quân lên tới 30 vạn người kéo vào nước Nam Việt
Khi các cánh quân Hán cùng tiến sâu vào đất Nam Việt, thấy thế giữ kinh thành không được, Triệu Dương Vương cùng triều thần lên thuyền xuôi ra biển rồi xuôi về giữ thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay), chỉ còn Lữ Gia và các viên tướng người họ Lã cùng quân binh và dân binh ở lại, trấn giữ thành và các nơi trọng yếu.
Ở mạn Tây bắc, Lữ Gia trực tiếp chỉ huy 15 vạn quân dân, đối đầu trực tiếp với cánh quân của Lộ Bác Đức.
Ở mạn Bắc, một cánh quân khác gồm 5 vạn người do Lữ Tuấn, Lữ Đạt là hai người con của Lữ Gia chỉ huy, đánh bại cánh quân của Dương Bộc, khiến chúng phải lui về vùng hồ Động Đình.
Ở phía nam, cánh quân 3 vạn người đi theo phò tá triều đình Triệu Dương Vương về đến Đại La do Lữ Điển là cháu họ của Lữ Gia chỉ huy, cũng đánh lui một cánh quân khác của nhà Hán bám theo truy đuổi ở cửa Thần Phù, khiến chúng phải rút lui vào vùng Diễn Châu Nghệ An ngày nay.
Lộ Bác Đức, Dương Bột cùng hai viên tướng Nghiêm, Giáp ở Thương Ngô, tất cả bốn hướng, cùng tiến công về phía Phiên Ngung. Bên phía Nam Việt, tuy quân số đông nhưng phần lớn đều là dân binh chưa qua tập luyện, nên không thể chống cự lại được với quân Hán vốn bao gồm toàn là những tinh binh thiện chiến.
Quân Nam Việt bỏ thành Phiên Ngung, rút lui dần về phía nam, nhưng qua mỗi chặng, đều bố trí các lực lượng ở lại chốt giữ ở những nơi trọng yếu. Thấy các mũi tiến công đều bị kháng cự lại quyết liệt, Lộ Bác Đức, Dương Bột bèn dùng mưu, sai Trang Trợ mang vàng bạc tới đút lót cho Ngô Quyên, Lý Ước – hai viên tướng bên phía Nam Việt mà chúng vốn quen biết từ trước. Hai kẻ nội gián này bí mật về tâu với Triệu Dương Vương ở thành Đại La rằng Lữ Gia ở bên ngoài đã hòa ước với giặc, đang kéo quân về làm phản. Vua Nam Việt hồ đồ tin là thực, bèn xuống chiếu bãi chức Thừa tướng của Lữ Gia, giáng xuống làm “Huyện doãn Phong Châu”. Khi nhận chiếu chỉ, Lữ Gia không hề oán giận đã mang quân về trấn giữ Phong Châu ngay. Phong Châu, nguyên là vùng Kinh đô cũ của các vua Hùng. Đó cũng là nơi có Phong Khê và Thành Ốc của Thục An Dương Vương. Khi Triệu Vũ Đế Nguyễn Thận đánh bại Thục Vương để giành lại nước, thì cũng đã đến đóng đô tại đây trong nhiều năm, đến gần cuối đời mới di chuyển lên Phiên Ngung.
Ở Phong Châu, Lữ Gia củng cố lực lượng, chiêu mộ thêm dân binh tới mấy ngàn người, rồi chia nhau đi chống giữ các nơi xung yếu. Hai người vợ của Lữ Gia, thời trẻ vốn đã tinh thông côn quyền đao kiếm, nên cũng lên đường chỉ huy những cánh quân nhỏ cùng các tướng đánh vào các doanh trại của giặc vào ban đêm, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Tuy nhiên, hướng tiến công chính của Lộ Bác Đức, Dương Bột lúc bấy giờ lại là thành Đại La, nơi có Triệu Dương Vương cùng triều thần đang trấn giữ. Trước sức tiến công ồ ạt của quân giặc, triều đình Nam Việt chống giữ không nổi, sau đó đã phải đầu hàng. Hạ xong thành Đại La, Lộ Bác Đức, Dương Bột lập tức tiến công vào Phong Châu, nhưng trước sự chống trả quyết liệt của quân dân Nam Việt, chúng không tiến lên được.
Lộ Bác Đức, Dương Bột lại dùng đến kế ly gián, cho người đem vàng bạc đút lót cho Bộ tướng Chu Năng người Việt làm phản. Khi Lữ Gia dẫn đại binh đến bến Nhân Mục gần thành Đại La để phản công, thì bị quân của Chu Năng đã mai phục sẵn, xông lên kéo đến đánh úp.
Lữ Gia lui quân về giữ Phong Châu, quân Hán kéo đến bao vây, thế trận bên phía quân ta bị vỡ. Một mình Lữ Gia tả xung hữu đột, giết được 50 tên giặc, rồi phá vòng vây, cùng một toán quân chạy về hướng Nam. Chạy đến gần làng Lã Chỉ là vùng đất bãi ở cửa sông Trà Lý huyện Thiên Bản tỉnh Nam Định cũ, nay là huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình, ông bị cánh quân Hán đuổi theo chém sạt một bờ vai. Trên lưng ngựa, ông vẫn tiếp tục chạy, nhưng đến làng Lã Chỉ thì ngã xuống. Nhân dân trong làng sau đó đã an táng cho ông, rồi lập ông làm Thần Thành hoàng, thờ cúng ở trong đình.
Sau thất bại, nước Nam ta bị người Hán chiếm lấy, cải là Giao Chỉ Bộ chia làm 9 quận và đặt quan cai trị như các châu quận bên nhà Hán. Nhà Hán đề ra chính sách đồng hóa giống nòi và giết hết người họ Lữ. Thừa tướng Lữ Gia không được nhắc nhở, không đâu có đền thờ, những người họ Lữ đều phải đổi thành họ Lã hoặc La lẩn khuất trong rừng cả thảy là 655 năm.
Các bạn thân mến. Thừa tướng Lữ Gia là một người con đất Việt anh hùng. Là vị tể tưởng vĩ đại của đất nước Nam Việt. Ông đã cùng với các vua nhà Triệu giữ yên bờ cõi của người Bách Việt trước sự bành trướng xâm lược của đế quốc Hán của tộc Hoa Hạ tới gần 100 năm. Tuy thừa tướng đã anh dũng hy sinh, nước Nam Việt bị mất vào tay nhà Hán, nhưng khí phách hiên ngang bất khuất của ông chính là ngọn lửa mãi bùng cháy trong tâm thức người Việt, để sau này làm nên những Bà Trưng Bà Triệu anh hùng, làm nên những Bạch Đằng Chi lăng hiển hách khiến kẻ thù phương Bắc phải kinh hoàng bạt vía. Ngày nay trên đất nước ta, có tới hàng trăm nơi nhân dân lập đền thờ, thờ Lữ Gia làm Thần Thành hoàng, hàng năm cúng giỗ, mở lễ hội tưởng nhớ công đức của ông- vị tể tướng nước Nam Việt vĩ đại.
LỮ GIA – THỪA TƯỚNG NHÀ NAM TRIỆU
NAM TRÌ
LỄ HỘI NAM TRÌ
ĐỀN – ĐÌNH NAM TRÌ VÀ LĂNG MỘ, NGÀY TẾ LỄ CÁC VỊ THẦN