LONG VƯƠNG BÁT HẢI ĐỘNG ĐÌNH

Loading

Long Vương có các xưng danh và hiện thân sau
– Vua cha Bát Hải Động Đình, hay còn gọi là Động Đình Quân, ngự ở Động Đình Hồ, là một trong bốn vua cha là Long Vương, Tản Viên, Diêm Vương và Ngọc Hoàng
– Long Vương ngự ở Long Cung
– Vĩnh Công Đại Vương, chữ Vĩnh liên quan đến Long Vương, chữ Công là ông Công trong bộ ông Công ông Táo
Ngày giỗ : 25/8 (hiện tượng mưa bão và lũ lụt của tháng 8 liên quan đến Long Vương)
Trong sự tích về Hồng Bàng thì Kinh Dương Vương đi chơi ở Động Đình Hồ gặp bà Hồng Đăng Ngàn con gái của Động Đình Quân. Hai người lấy nhau và bà Hồng Đăng Ngàn sinh Lạc Long Quân. Do đó, Long Vương là ông ngoại của Lạc Long Quân. Như vậy chữ Long và chữ Quân trong tên của Lạc Long Quân đều liên quan đến ông ngoại Long Vương và Động Đình Quân. Sau này, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng mình vốn là rồng dưới biển nên đem 50 con xuống biển, còn Âu Có là tiên trên núi nên đem 50 con lên núi, nghĩa là 50 đứa con sẽ theo Lạc Long Quân đi về xứ sở của Long Vương.
Long Vương cai quản 8 cửa biển (ứng với bát âm, bát quái)
Đền thờ
– Đền Đồng Bằng ở làng Đồng Bằng, Xã An Lễ, Huyện Quỳnh Phụ, Tỉnh Thái Bình, theo tích xưa đền nằm ở cửa sông Vĩnh, nhưng nay nằm bên sông Diêm Hộ
– Đền Đền thờ Bát Hải Long Vương, xưa thuộc trang Phú Dương, tổng Trung Bạn, huyện Tống Sơn, trấn Thanh Hoa; nay thuộc khu phố 5, phường Phú Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, theo tích xưa liên quan đến sông Lâu nhưng nay nằm ở sông Càn hay sông Chính Đại .
===o===o===
Đền Đồng Bằng
Vị trí: Làng Đồng Bằng, Xã An Lễ, Huyện Quỳnh Phụ, Tỉnh Thái Bình, theo tích là ở cửa sông Vĩnh, nhưng hiện tại đang ở bên sông Diêm Hộ, là một nhánh của sông Luộc đổ ra cửa Diêm Hộ.
Đền Đồng Bằng đã được xây dựng từ thời vua Hùng Vương thứ 18, là nơi thờ Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình.
Ngôi đền này nhận được sắc phong “Tam Kỳ Linh Ứng – Vĩnh Công Đại Vương Tối Thượng Đẳng Linh Thần”.
Tương truyền vào thời Hùng Vương thứ 18, khi ngoại bang đến xâm lăng nước ra, triều đình đã chiêu tập binh hùng tướng mạnh, chuẩn bị kỹ lưỡng nhưng vì thế giặc quá mạnh nên đã phải lập đàn Triệu Linh Sơn Tú Khí, cầu thần linh hỗ trợ chống giặc.
Vùng đất này thời ấy thuộc trang Hoa Đào, nằm ở gần cửa sông Vĩnh. Đây là nơi Long Cung Hoàng Thái Tử (tức là Giao Long – con của Lạc Long Quân và người thiếp Ngọc Nữ) đã đầu thai vào một gia đình ngư dân sinh sống gần cửa sông, thuộc Trang Hoa Đào, đất Việt (xã An Lễ, Quỳnh Phụ bây giờ) giúp phò tá vua đánh giặc. Ngài đã cùng với 2 người em và 10 vị tướng hùng mạnh: quan lớn Thượng, quan Đệ tam, quan Đệ tứ, quan Điều thất (ông Hoàng Mười), quân sư quê ở Nuồi, 28 vị nội tướng và binh sĩ, cùng nhau hợp sức đánh tan giặc trên 8 cửa biển, mang về thái bình cho đất nước. Sau chiến thắng ấy ngài được phong là Vĩnh Công Đại vương. Thay vì ở lại triều đình, ngài xin về quê phụng dưỡng cha mẹ và khai khẩn, chiêu dân lập ấp vùng duyên hải, giúp vua giữ yên bờ cõi.
Khi Vĩnh Công Đại Vương quy tiên vào ngày 25/8 âm lịch, người dân nơi đây nhớ ơn Ngài nên đã tôn ông là Vua cha – Bát Hải Đại Vương. Vua Hùng cũng đã cho tu sửa lại dinh thất, xây thành miếu điện thờ để người dân hương khói tưởng nhớ.
Rất nhiều câu chuyện tương truyền rằng Vĩnh Công Đại Vương rất linh thiêng, vào thế kỉ XIII khi giặc Nguyên – Mông đến xâm lược nước ta, Hưng Đạo Đạo Vương đã đưa các tướng đến đền để cầu nguyện âm phù.
Sau ba lần đánh đuổi được quân Nguyên – Mông, binh tướng nhà Trần đã góp sức để tôn tạo đền thờ thêm khang trang. Từ cuối thế kỷ XIII đến nay, đền thờ này còn tưởng niệm Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Từ đó đến nay, dù trải qua hàng ngàn năm với rất nhiều biến động lịch sử, người dân Thái Bình vẫn hương khói đầy đủ, thờ cúng Vĩnh Công Đại Vương và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cùng những anh hùng nhà Trần có công với đất nước.
===o===o===
Đền thờ Bát Hải Long Vương
Vị trí : Đền xưa thuộc trang Phú Dương, tổng Trung Bạn, huyện Tống Sơn, trấn Thanh Hoa; nay thuộc khu phố 5, phường Phú Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Theo sách “Thanh Hoa chư thần lục” (bản dịch, ký hiệu VHv.1290, Thư viện Hán Nôm) của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép về các vị Thần được tôn thờ ở Thanh Hóa, thì vị Thần được tôn thờ ở trang Phú Dương có Hiệu duệ là “Bát Hải Long Vương tôn Thần” – Vị thủy thần liên quan đến vùng sông, biển.
Tương truyền, vào thời Hùng Vương thứ 18, vua Hùng Duệ Vương trị vì đất nước ở vùng đất trong bãi bồi cửa sông Lâu ngày xưa (nay là làng Phú Dương) dân cư thưa thớt, nghề nông chưa phát triển, chủ yếu làm nghề chài lưới. Trong làng có một cô gái mồ côi cả cha lẫn mẹ, thường mò cua bắt ốc ven sông, được vợ chồng một ngư dân vùng bãi ngoài (Nga Sơn) nhận về làm con nuôi.
Trong một lần về thăm quê cũ, ra sông Lâu tắm, bỗng mây nổi, sóng cồn, bỗng một con Giao Long nổi lên quấn lấy nàng, sau đó nàng có thai. Trong một đêm mưa gió, nàng sinh ra một cái bọc. Quá kinh hãi, nàng ôm cái bọc ấy thả xuống dòng sông Lâu. Cái bọc ấy nhiều lần trôi vào bè vó của một ông lão thuyền chài; thấy kỳ lạ, ông lão vớt lên lấy dao rạch, từ trong bọc chui ra 3 con Hoàng Xà (nửa rồng nửa rắn, mào đỏ, vẩy vàng) trong ánh hào quang tỏa ra chói lọi. Con lớn bơi thẳng vào bờ, rồi biến mất trong cái giếng tự nhiên (nay là Giếng Thiêng đền Bát Hải Long Vương). Hai con nhỏ bơi về phía cửa biển Thần Phù (Nga Sơn).
Vào một đêm mưa to, gió lớn, sấm sét đùng đùng, dân trong vùng nghe âm vang tiếng nói khác thường từ cái giếng ven sông Lâu: “Ta là Thái tử Long cung, được Vua cha sai lên giúp nước Nam đánh giặc”. Biết là có Thần linh hiển báo, hôm sau, các bô lão trong làng đến bên bờ giếng đắp một ụ đất cao, thắp hương, cầu nguyện; rồi kêu gọi nhau bỏ công sức, tiền của dựng một cái miếu thờ, gọi là miếu Thủy Thần để ngày ngày hương khói.
Khi giặc phương Bắc xâm lăng nước Nam, Vua Hùng Duệ Vương sai con rể là Sơn Tinh đánh lui giặc trên bộ. Riêng cánh quân thủy của giặc vì có nội gián chỉ đường theo tám cửa biển đánh sâu vào đất liền, thế giặc rất mạnh nên quan quân thua trận rút dần từng bước. Vua Hùng Duệ Vương lập đàn cầu đảo, được Thiên Đình ứng báo: “Tại bãi trong cửa sông Lâu, có kỳ nhân có thể đánh tan thủy tặc”.Vua sai sứ giả về tìm, dân làng đưa sứ giả đến bên giếng Thần, Hoàng Xà hiện lên thành một chàng trai lực lưỡng khôi ngô tuấn tú. Xin nhà vua cho 10 ngày để triệu hai em và tuyển đủ 10 tướng tài, chiêu mộ quân sĩ sẽ đánh tan giặc giữ. Kỳ nhân Hoàng Xà dẫn quân tướng ra trận nhanh chóng phá tan giặc trên cả tám cửa biển.
Đất nước trở lại thanh bình, Vua Hùng Duệ Vương phong cho Thần Hoàng Xà là Vĩnh Công Đại Vương và có ý lưu lại cùng lo việc triều chính. Nhưng Vĩnh Công xin được về quê để dạy dân khai hoang, rửa mặn trồng lúa, chài lưới, trồng dâu, nuôi tằm dệt vải, đồng thời cắt cử các quan lớn đã từng theo Thần đi đánh giặc trấn giữ tám cửa biển nước Nam. Từ đó tám cửa biển nước Nam đều yên ổn, dân cư ngày càng đông đúc, trù phú.
Hằng năm, cứ đến dịp ngày đại thắng, Vĩnh Công Đại Vương lại triệu tập các quan lớn ở tám cửa biển về Phú Dương (nơi Thần đang ngự) hội tụ để tâu trình việc trông coi an ninh vùng biển, việc chăn dắt dân chúng ở từng vùng. Trong những ngày hội tụ, Thần Vĩnh Công chủ trì, xem xét tình hình tám cửa biển, nhắc nhở các quan lớn chăm lo việc hướng dẫn, bày bảo cho dân khẩn hoang, lập ấp, cấy lúa trồng màu, đan thuyền, đan lưới đánh bắt cá, tôm và giữ gìn cho dân chúng được yên lành. Vĩnh Công còn cho tổ chức Hội thi bơi thuyền, đánh vật, hát đúm, hát bè giữa các bản hạt, vừa để dân chúng tự hào về chiến công ngày trước và nêu cao tinh thần thượng võ. Bản thân Thần Vĩnh Công cũng tham gia múa hát, vui hội cùng dân chúng.
Công đức của Vĩnh Công đối với dân làng Phú Dương rất lớn, Ngài sống gần gũi với dân như tình cha con, dạy bảo dân cấy lúa, trồng dâu, chăn tằm dệt vải, đánh bắt cá tôm. Dân Phú Dương cũng như cư dân ở tám cửa biển nước Nam nhờ ân huệ của Ngài ngày càng no đủ, xóm làng sầm uất, cuộc sống bình yên, giàu có, rộn vang tiếng đàn, tiếng hát.
Một hôm Vĩnh Công mời các vị hương lão trong làng Phú Dương đến dặn rằng: “Ta cùng các vị là dân lân hương ấp, ăn ở với nhau như tình ruột thịt, nghĩa như cha con; nay ta sắp phải vâng mệnh về chầu Vua cha Long Vương, nếu có nhớ đến ta thì nhà ta ở đây là Miếu sở, ngày ta đi là ngày Giỗ”.
Tất cả hương lão nghe vậy đều nức nở, bùi ngùi. Bỗng trời đất tối sầm, sấm chớp giữ dội. Lát sau trời quang mây tạnh các hương lão bàng hoàng chỉ còn thấy xiêm y của Vĩnh Công Đại Vương để lại. Hôm đó, nhằm vào ngày 25 tháng Tám năm Mậu Thìn. Dân làng dâng biểu về kinh: Vua Hùng Duệ Vương thương xót ban phong Thần hiệu: “Vĩnh Công Bát Hải Động Đình tôn Thần” lại sai cấp tiền cho dân tổ chức táng tế chu đáo và sửa sang nơi ở của Thần thành Miếu điện, rồi lại hạ sắc miễn thuế cho dân lấy ân lộc ấy hàng năm mà hương khối. Dân làng Phú Dương tôn Thần Bát Hải Long Vương là Thành Hoàng của Làng để cầu mong được Thần phù hộ, độ trì, che chở.
Các địa danh có liên quan đến xứ sở Long Vương
– Long : tỉnh Long An, quận Long Biên (Hà Nội), thành phố Long Xuyên (An Giang), Thị xã Phước Long (tỉnh Bình Phước), Thành phố Long Khánh (tỉnh Đồng Nai), Huyện Long Thành (tỉnh Đồng Nai), huyện Long Mỹ (tỉnh Hậu Giang), thị xã Long Mỹ (tỉnh Hậu Giang)
– Biển hồ, Bể : Biền Hồ, hồ Ba Bể
– Thuỷ : Quận Bình Thuỷ (thành phố Cần Thơ), huyện Thuỷ Nguyên (tỉnh Hải Phòng), huyện Vị Thuỷ (tỉnh Hậu Giang),
– Hải : tỉnh Hải Dương, tỉnh Hải Phòng
– Vĩnh : Vĩnh Long, Vĩnh Phúc, Vĩnh Phú,
– Vũng : Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, thành phố Vũng Tàu, Vũng Áng (tỉnh Hà Tĩnh), Vũng Thùng
Các vùng có liên quan đến xứ sở Long Vương
– Cửa biển, cửa sông
– Biển hồ : Biển Hồ, Hồ Ba Bể
– Giao các con sông : Sông Cửu Long, sông Hoàng Long, sông Tam Giang
– Vịnh : Vịnh Hạ Long, Vịnh Bái Tử Long

Dù cho núi Chúa bạc đầu
Vũng Thùng cạn nước, đến đâu ta cũng chờ

Vũng Thùng Tức vịnh Hàn, hay cửa biển Đà Nẵng.

—o—

Xuân Đài nhiều mướp, nhiều dưa
Long Thủy nhiều mắm, nhiều dừa nước ngon.

Long Thủy Tên cũ là Mỹ Á, một ngôi làng trước thuộc xã An Phú, huyện Tuy An, nay thuộc thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Làng nằm sát biển, nổi tiếng có dừa xiêm uống nước rất ngọt, mát. Vườn dừa Long Thủy rợp bóng mát, quanh năm che phủ cả thôn. Tại đây có bãi biển Long Thủy, nhìn ra xa là cụm Hòn Chùa, Hòn Than và Hòn Dứa.

 

Chia sẻ:
Scroll to Top