Cô giáo : Các em hãy phân tích câu tục ngữ “Không thày đố mày làm nên”
Nhóm 1 : Không thày, đố mày làm nên
- Học sinh a : Không trò, đố làm nên thày. Không thày, đố mày làm trò. Hai câu đó thì chắc chắn đúng rồi, còn không thày, đố mày làm nên cái gì nhỉ ?
- Học sinh b : “Không thày, đố mày làm nên” trò giỏi. “Không thày, đố mày làm nên” lớp học.
- Học sinh c : Học thày không tày học bạn. “Không thầy, đố mày làm nên” bạn học.
Nhóm 2 : “Không thày, đố mày làm nên” một lề lối lệ thuộc
- d : “Không thày, đố mày làm nên” mọi thứ như sự nghiệp, tiền bạc, nhân cách, lý tưởng …
- đ : “Tay trắng, làm nên” sự nghiệp, tiền bạc …, “tay không mà dựng cơ đồ mới ngoan”, “tự thân vận động”,
- e : “Tự lực cánh sinh”, cánh chính là nhân cách, lý tưởng
- f : Tự học không cần thày
Anh nhiêu đi học không thầy
Làm bài không bút thiếp rày theo anh
—
Trai Thổ Sơn ăn khoai ăn củ
Mà lên rừng bắt hổ về chơi
Xuống biển tìm giết cá voi
Đi học biết chữ gấp đôi ông thầy
- g : Ca dao, tục ngữ có nhiều câu chê thày và chê bọn học trò có lề lối phụ thuộc
Học thầy chữ lại trả thầy
Bút trả hàng xén, giấy nay phất diều
—
Là lượt là vợ thông lại
Nhễ nhại là vợ học trò
—
Mười năm cắp sách theo thầy
Năm thứ mười một vác cày theo trâu
—
Tiếng anh nho sĩ học trò
Thấy sông thì lội không dò cạn sâu
—
Học trò ba chữ lem nhem
Thấy gái mà thèm, bỏ chữ trôi sông
—
Học trò xứ Quảng ra thi
Thấy cô gái Huế chân đi không đành
—
Chồng em coi bộ tinh anh
Tưởng là chồng cũng học hành giỏi giang
Đêm nay gió hú ngoài làng
Thấy chồng điểm chỉ bẽ bàng lắm thay
—
Học trò ăn vụng cá kho
Ông thầy bắt được đánh mo lên đầu
—
Ai ơi chớ lấy học trò
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm
Ngày thời cắp sách đi rong
Tối về lại giữ đèn chong một mình
—
Gió nam ào ạt
Gốc cây nằm mát
Chẻ lạt đứt tay
Đi cày trâu húc
Đi xúc phải cọc
Đi học thầy đánh
Đi gánh đau vai
Nằm dài nhịn đói
—
Trên đầu có tổ lông công
Gọi tao là ông tao cất xuống cho
Trên đầu có ổ tò vò
Gọi tao là chú học trò tao cất đi cho
Nhóm 3 : Không thày đố, mày làm nên
- h : Không thày đố, mày làm nên. Mấy chuyện mày tự làm thì mày tự sửa, rất đơn giản, kiểu gì cũng nên. Mấy chuyện mà mày nghe thày, ông nói ra, ông nói vào, toàn mấy thứ đánh đố, thì mày làm không nên cái trò trống gì. Chứng khoán, yêu đương, cầu cúng, mấy lĩnh vực ấy, mày học bao nhiêu thày, rồi thì chứng khoán lỗ, yêu đương hỏng, cầu cúng tốn kém.
- i : Không thày đố, mày làm nên, vì “Lắm thầy nhiều ma, lắm cha con không lấy được chồng”
- j : Không thày đố, mày làm nên, vì “Nhiều thợ ăn cây, nhiều thầy ăn bệnh”
- k : Không thày đố như thày bói, thày cúng, thày đồng, mày làm nên vì “Thầy bói, thầy cúng, thầy đồng, Nghe ba thầy ấy, cái lông không còn”
- l : Không thày đố, gồm thày dốt, thày bậy, thày vô dụng, thày dởm, thầy xấu xa …, mày làm nên
- m : Thày cứ đố, mày cứ làm việc của mày, mày tự học, mày tự làm, mày tự thân vận động, mày tự lực cánh sinh, và mày làm nên
Thày ăn tàn, gây hại
Lắm thày nhiều ma, lắm cha con không lấy được chồng
—
Nhiều thợ ăn cây, nhiều thầy ăn bệnh
—
Ít thầy đầy đãy, nhiều thầy chia bảy chia ba
—
Lấy lính thì được ăn lương
Lấy thầy ăn óc, ăn xương gì thầy
Thà rằng nhịn đói ăn mày
Còn hơn đi lấy nửa thầy nửa dâm
—
Làm thầy nuôi vợ
Làm thợ nuôi miệng
Thày bần hàn, không biết xoay xở
Không tiền không gạo, mạnh bạo gì thầy
—
Học trò đi vùa bánh cúng
Thầy ở nhà xách thúng chạy theo
—
Cả làng có một thầy đồ
Dạy học thì ít, bắt cua thì nhiều
Thương thầy, trò cũng muốn theo
Trò sợ thầy nghèo bán cả trò đi
—
Thầy giáo lĩnh lương ba đồng,
Làm sao sống nổi mà không đi thồ?
Nhiều thầy phải đạp xích lô,
Làm sao xây dựng cơ đồ học sinh?
Thày vô dụng
Thương trò may áo cho trò
Thiếu đinh, thiếu vạt, thiếu hò, thiếu bâu
—
Lâu ngày thầy địa tới thăm
Giũ mùng, trải chiếu, thầy nằm nghỉ lưng
Thày dốt
Thầy đi học đạo làm chi
Tương chao có biết hơn gì hay không?
—
Năm đồng đổi lấy một xu
Thằng khôn đi học, thằng ngu làm thầy
Người khôn ở chốn lao tù
Để cho đứa dại võng dù nghinh ngang
—
Thầy dốt mà đọc kinh khôn
Đến khi đọc dồn í ả ì a!
—
Trèo lên cây khế bẻ bông
Ngó vô trường học thấy đông dậm dày
Nếu em không sợ ông thầy
Em vô cầm bút sửa chữ này cho anh
—
Trèo lên cây khế bẻ bông
Ngó vô trường học thấy đông làm vầy
Phải chi đừng sợ ông thầy
Em vô em nói chữ này anh nghe
—
Tiếng anh ăn học nhiều thầy,
Lại đây em hỏi con bò cày mấy lông?
Em về đếm cá dưới sông,
Em đếm người thiên hạ, anh sẽ đếm lông con bò cày
Thày làm bậy
Hỏi sư mượn lược
—
Ai về nhắn nhủ ông sư
Đừng nhang khói nữa mà hư mất đời
—
Má ơi con muốn lấy ông thầy chùa
Chuối, xôi, bông, bánh, bốn mùa má ấm thân
—
Bần tăng là kẻ tu hành,
Bao nhiêu gái đẹp để dành bần tăng.
—
Thầy sãi thầy sai
Niêu hai cơm nếp
Thầy cả đánh hết
Đạo tràng ngồi không
Tín chủ ngồi đồng
Xin thầy miếng cháy
—
Thầy bói, thầy cúng, thầy đồng
Nghe ba thầy ấy, cái lông không còn
—
Chập chập rồi lại cheng cheng
Con gà sống thiến để riêng cho thầy
Đơm xôi thì đơm cho đầy
Đơm vơi thì thánh nhà thầy mất thiêng
—
Lấy ai bất quá lấy thầy
Nghe ba tiếng trống, xôi đầy nồi rang
—
Nhóm 4 : “Không thày, đố mày làm nên” có giá trị như được ca ngợi ?
- n : “Không thày, đố mày làm nên” là một câu không đủ ngữ pháp vì không biết làm nên cái gì. Vì thày trò là hai cực âm dương của một mối quan hệ không thể tách rời, nên khi cố gắng làm cho câu này chính xác về mặt ngữ nghĩa, thì ý nghĩa của nó lại ngô nghê. “Không thày, đố mày làm nên” trò giỏi. “Không thày, đố mày làm nên” lớp học, “Không thầy, đố mày làm nên” bạn học, “Không thày, đố mày làm nên kỳ thi” … là những câu đủ nghĩa, nhưng không có giá trị của tục ngữ.
- o : Nếu sử dụng “làm nên” như nội động từ, thì phải “tay trắng làm nên”, “tự thân làm nên”, “chính mày làm nên”…, nghĩa là phủ nhận điều kiện cần là thày
- p : Nếu câu này vẫn có nghĩa thì sao ?
- q : Ý nghĩa của nó có thể là sự dẫn dụ, sự ám chỉ một lề lối lệ thuộc kiểu “không thày, đố mày làm nên bất kỳ cái gì”, như vậy hoặc ông thày này phải là một kẻ chủ nô và mày phải là nô lệ, thì quan hệ nghiêm trọng này mới có thể xảy ra
- u : Nếu ông thày này là thày mẹ, thày bu thì “không thày, đố mày làm nên thân thể, sinh mạng, cuộc đời …” nhưng thày mẹ, thày bu cũng là căp âm dương không thể tách rơi, sinh mạng, thân thể, cuộc đời không thể chỉ được tạo ra bời thày
- s : Tao tìm được một số câu tương tự, cũng cố tình nói lơ lửng, cũng ngầm ca ngợi sự lệ thuộc, tao nghĩ không nên theo
Mấy ai là kẻ không thầy
Thế gian thường nói: đố mày làm nên
Mẹ cha công đức sinh thành
Ra trường thầy dạy, học hành cho hay
Muốn khôn thì phải có thầy
Không thầy dạy dỗ, đố mày làm nên
Sự đời phải nghĩ mà răn
Phải nuốt lời bạn, phải ăn lời thầy
Dốt kia thì phải cậy thầy
Vụng kia cậy bạn thì mày mới nên
Nhóm 5 : “Không thày đố mày làm nên” là câu lơ lửng
- t : Thế câu tục ngữ “Không thày đố mày làm nên” là sai hay đúng hả bọn mày ? Tao thấy rất các câu ca dao, tục ngữ ca dao ngược lại với câu này thì phong phú, cụ thể, dài ngắn, ngân nga các kiểu, còn vài câu lơ lửng như cái câu này thì đếm trên đầu ngón tay mà câu chữ thì loanh quanh tối nghĩa.
- u : “Không thày đố mày làm nên” là câu lơ lửng, suy diễn thế nào chả được, mày sống thế nào, mày suy diễn câu này ra y như thế thôi.
- v : Thế thì cô không nên đố câu này, rồi bắt học sinh mỗi người giải một kiểu cho mất công
- w : Khi cô bảo các em hãy phân tích câu tục ngữ “Không thày đố mày làm nên” nghĩa là đố các em biết cô nghĩ gì về câu tục ngữ “Không thày đố mày làm nên”. Mà đố mày biết được thày cô nghĩ gì, nên là phải có văn mẫu.
Nhóm 6 : Không học, đố mày làm nên
- x : “Không học, đố mày làm nên”, học mới là cái gốc chứ không phải là dạy, chính mỗi người mới là cái gốc chứ không phải thày
Học khôn đến chết
Học nết đến già
- y : Nếu đã coi tự học là cái gốc, thì học thày, học bạn, học vợ, học bất kỳ ai …
Anh về cắm nọc căng dây
Bên ni, bên nớ tìm thầy học thêm
Học anh rồi lại học em
Để khỏi mang tiếng ngày đêm luyện mài
—
- z : Nếu đã coi tự học là cái gốc thì học từ lao động, học từ hoàn cảnh sống …
Thấy anh ra vẻ học trò
Lại đây em hỏi con cò mấy lông?
Em về đếm cát bờ sông
Đếm coi mấy hạt anh nói lông con cò
—
– Hỏi anh, anh nói học trò
Sao em lại thấy cưỡi bò hôm qua?
– Em ơi, bò ấy bò nhà
Đứa ở đi khỏi anh ra thăm đồng
Nếu mai nên vợ, nên chồng
Anh lại đi học, em trông bò giùm.
—
– Tưởng đâu hay chữ em nhờ
Ai hay anh xách vịt ngồi bờ câu lươn
– Sách vở anh để trong rương
Anh đi xách vịt câu lươn thanh nhàn
- ồ : Khi mình học được cái gì đó từ một người, thì người đó là thày và mình sẽ thực sự biết ơn
Mười năm luyện tập sách đèn
Công danh gặp bước chớ quên ơn thầy
Yêu kính thầy mới làm thầy
Những phường bội bạc sau này ra chi
—
Dạy con từ thuở tiểu sinh
Gần thầy gần bạn tập tành lễ nghi
Học cho cách vật trí tri
Văn chương chữ nghĩa nghề gì cũng thông
—
Gươm vàng rớt xuống hồ Tây
Công cha cũng trọng, nghĩa thầy cũng sâu.
Nhóm 7 : Thày là ai và thày ở đâu ?
- à : Thày là bất kỳ ai, bất kỳ cái gì thì không thể lúc nào cũng đòi đi đường bình thường mà tới được đúng không bọn mày ?
Bồng bồng mẹ bế con sang
Đò dọc quan cấm, đò ngang không chèo
Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy
- ơ : Thày này xuất hiện từ lúc ta còn chưa biết đi, mẹ phải bế, thế thì “chữ” ở đây không phải là chữ viết
- ớ : Việc hai mẹ con đi gặp ông thày liên quan đến việc vượt sông, con sông này là sự sống, liên quan đến việc con chào đời chăng ?
- ở : Việc đi dọc sông và đi qua sông vướng mắc quá, sống ngang và sống dọc đều không được chúng mày ạ
- ứ : Cầu kiều là gì hả bọn mày ? Cầu kiều vượt được trở ngại dọc và ngang, chắc nó là cầu chéo, cầu cong. Cầu kiều này hai mẹ con tự bắc khi vượt sông, hay cầu kiều là cầu thanh âm, cầu nguyện, mà vượt qua mọi hình tướng. Giá bác Nguyễn Du còn sống.
- ừ : Phải yêu thày, chứ không phải học thày bọn mày nhé, chắc vừa nguyện với tình yêu thì cầu kiều mới hoạt động.
- ư : Ông thày với cây cầu kiều này phải siêu xịn, mà không có, thì đố mày làm nên thật đấy
- ả : Không yêu thày, thì đố mày, cái bọn cấm đò dọc, đò ngang, cản trở được sự sống của hai mẹ con tao