===
Tôi có chuyến đi Thanh Hoá (ngày 24/11/2023) để thăm đền Đồng Cổ, hai ngôi đền thuộc hàng cổ kính bậc nhất xứ Thanh, mà có niên đại cách đây hàng nghìn năm
– Đền Đồng Cổ ở Đan Nê, thuộc xã Yên Thọ, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá
– Đền Đồng Cổ ở làng Mỹ Đà, xã Hoằng Minh (sau sáp nhập vào xã Hoằng Đức), huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hoá
Giữa đường đi từ Đan Nê sang Mỹ Đà, chúng tôi ghé qua làng đúc đồng Trà Đông, hay còn gọi làng Chè, thăm đền thờ tổ nghề đúc đồng Nguyễn Minh Không.
===
Đền Đồng Cổ Đan Nê
Đền Đổng Cổ Đan Nê nằm trong quần thể gồm đền Đồng Cổ (chân núi), chùa Thanh Nguyên (lưng chừng núi) và Quán Triều Thiên hay Quán Trời (đỉnh núi)
Cụm đền nằm này nằm trong cụm 3 núi có tên chung là Tam Thai hay Khả Lao, gồm núi Đổng, núi Xuân và núi Nghễ. Trong đó
– núi Đổng là núi dương, ứng với ông Công, đền Đồng Cổ (chân núi),
– núi Nghễ là ông Táo, ứng với Quán trời (đỉnh núi)
– núi Xuân là bà Thị, ứng với chùa Thanh Nguyên (lưng chừng núi, nửa chừng xuân) .
Ba vị Đầu nhau, giữ Tâm thai cho bào thai, nên cũng là ba vị Tâm Thai hay Tam Thai. Trách nhiệm của ba vị đầu nhau là giữ sự thai nghén của ba trạng thái Thái Cực/Vô cực, Lưỡng nghi/Nhị Nguyên. Tam Thai cũng là tên của một sao trong tử vi.
Giữa cụm núi này là một cái hồ, tạo ra trạng thái đồng lòng cho 3 quả núi. Đền nằm nhìn ra hồ, quay lưng lại sông, còn Quán và Chùa trên cao hướng nhìn về sông và không thấy hồ.
Đối diện về đền Đồng Cổ qua hồ là 2 bia đá lớn khắc vào vách núi. Gần bia đá trên vách núi là cửa hang. Vì hang nằm trong núi Đổng nên có tên là Đổng Hang, hang Vân Trung, hang Ích Minh, hay hang Tòng quân (ngày xưa tập trung quân ở đây). Hồ có mạch nước ngầm trước mặt đền Đồng cổ có mạch nước chảy qua hang này và thông ra sông Mã. Hang này giờ thành hang cạn chay ngoằn nghèo từ cửa hang nhìn ra hồ xuyên lòng núi đến bến sông.
Bến sông Mã ở đoạn này gọi là bến Trường Châu. Từ trên núi nhìn xuống có thể thấy dòng sông Mã uốn cong thành một vòng cung khoảng 3/4 vòng tròn. Đây một trong các góc nhìn có thể nói là đẹp nhất về sông Mã.
Đền Đồng Cổ dương ở Đan Nê, thuộc xã Yên Thọ, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá ngày nay. Làng Đan Nê được đặt tên từ lớp đan nê (bùn đỏ) hiếm gặp, nằm sâu bên dưới đất làng. Khi Đạo giáo còn phát triển thịnh vượng, bùn đỏ chính là thứ nguyên liệu quý báu của các đạo sĩ để luyện linh đan. Các sách xưa chép rằng, khi đào giếng tại làng Đan Nê thường thấy bùn đỏ trào ra; hoặc ngựa uống nước trong hồ bán nguyệt, mồm bám đầy bùn đỏ… Đan Nê là chất liệu tạo Linh Đan ở Đan Điền.
Trước khi đến đền, tôi đã kết nối từ xa với đền thì tôi nghe được âm thanh trống đồng đánh từ dưới lòng đất vọng lên, qua chân, lên đáy tim. Cảm giác tiếng trống đặt sâu trong lòng đất mạnh như chày giã gạo xưa dồn dập như trống lệnh. Trong tiếng trống, tôi có cảm giác một năng lượng quần đảo như một con rồng lớn ở rốn trống (Long Đỗ) đang thức dạy. Nhịp điệu này rất dương, mạnh và động đến mức mà làm nhịp tim của tôi không thể nào mà trụ nổi.
Điều kỳ lạ là khi tôi trực tiếp đến nơi lại thấy vừa “yên” vừa “định”, theo đúng cái tên Yên Định. Lúc này tôi hiểu Yên Thọ là yên ổn về sau, dù lúc đầu có thể rất động, thậm chí là loạn động, cuồng đông. Tôi cũng nhận ra con rồng thổ cuồng động mà tôi nhận được trong trường âm thanh trống đồng lúc đầu đã chuyển hoá thành Thanh Long. Thanh Hoá là chuyển hoá Thanh âm hay Thanh Long chuyển hoá.
Khi tôi đang đứng chắp tay cùng mấy người trong đoàn sau lưng chủ tế ở gian chính của đền Đồng Cổ thì tôi lại thấy thần Đồng Cổ xuất hiện sừng sừng ở hồ nước trước sân đền. Như vậy thần Đồng Cổ xuất hiện theo hướng nhìn của đền và sau lưng của chủ tế, người đang hướng về hậu cung đền. Đổng Cổ Đan Nê là đền dương, có nghĩa là người nữ không nên vào hậu cung, và tôi đã thấy thần Đồng Cổ ở ngoài hồ, cho nên chẳng cần bác từ nhắc không cho nữ vào hậu cung, tôi cũng xin đứng ngoài.
Thần Đồng Cổ tự xưng là Đồng Thạch Cổ, hiên ra trong hình người nam đứng thẳng, cao bằng quả núi, màu đá xanh ghi. Tôi không hiểu cái tên này cho đến khi biết tên 3 đỉnh núi của Tam Thai, là núi Đổng, núi Nghễ, núi Xuân. Hợp nhất của ba vị thần núi là thần Đồng Thạch Cổ.
Tôi hỏi sao thần Đồng Thạch Cổ vì sao xuất hiện ở vị trí hồ thì ngài nói là cần thay đổi các trật tự. Dạo này địa điểm thờ cúng nào cũng thay đổi trật tự do chuyển đồi thời kỳ, nên tôi không biết là cần thay đổi cái gì. Sau khi đi quanh hồ, vào hang, rồi trèo lên núi, tôi mới định vị được vị trí mà ngài hiện ra là vị trí đồng hồ và đồng lòng. Vậy thần Đồng Cổ cho tôi 3 mật mã ở Đan Nê là Đồng Thạch Cổ – Đồng Hồ – Đồng Lòng.
===
Đền thờ tổ nghề đúc đồng làng Trà Đông
Sau khi rời Đan Nê, tôi đến đền thờ tổ nghề đúc đồng của làng Trà Đông.
– Mặt trước của đền : Một người bạn đi cùng chỉ cho tôi thấy mặt trước đền 3 bức hình đắp nổi, ở chính giữa là Phật Tổ và hai bên là hình Từ Đạo Hạnh, Giác Hải và Minh Không, cùng nhau đi Tây Trúc.
– Ở gian chính của đền bốc lên một ngọn lửa rất sáng và ấm. Ở đâu có huyệt lửa, ở đó mới có thể có lò đúc đồng, có nghề đúc đồng. Tình trạng vật lý của đền rất tệ, mái hỏng hết lợp bằng ni-lông tránh dột, nhưng bài vị, tượng và năng lượng của đền rất ổn.
– Hậu cung của đền có 3 bức tượng của 3 vị tổ nghề.
– – – Ở chính giữa là bức tượng Nguyễn Minh Không mà thần thái rất giống bức tượng người thợ đúc đồng ở đền Quán Thánh, đường Cổ Ngư, Hà Nội. Vì đã đi đến nhiều nơi thờ thánh Nguyễn, Nguyễn Minh Không ở Hà Nội, nên tôi thấy rất quen thuộc.
– – – Hai bên là tượng của hai vị tổ nghề họ Vũ và họ Nguyễn, tương truyền là người làng Trà Đông xưa, mà đã nhận học nghề từ Nguyễn Minh Không. Vì đọc giới thiệu về làng trước khi đi, nên tôi có tâm lý rằng vị họ Nguyễn và họ Vũ là người làng Trà Đông ngày xưa, mà đây là lần đầu tôi đến Trà Đông thì làm sao tôi biết được họ là ai, nhưng khi chắp tay trước các vị đó thì tôi thấy rất quen. Vị họ Nguyễn và họ Vũ bảo tôi có nhận ra người quen cũ không. Vì tôi không thể nhận ra được vị họ Nguyễn và vị họ Vũ là ai, nên được nhắc về cuộc đời của bà Bạch Liên Hoa, mẹ của Thánh Láng. Khi nhận được tên bà Bạch Liên Hoa, tôi nhận được ra rằng ba vị được thờ ở hậu cung của đền là Đồng Thánh, hay bộ ba Thánh Láng.
Như vậy, ba vị tổ nghề được thờ ở đây chính là bộ ba nổi tiếng là Từ Đạo Hạnh – Giác Hải – Nguyễn Minh Không. Trong đó,
– Nguyễn Minh Không, hay thánh Nguyễn được thờ là tổ nghề của nhiều làng nghề đúc đồng chứ không chỉ của làng Trà Đông. Ông nói với tôi rằng ông là khi là tổ nghề đúc đồng thì ông Thánh Đúc Đồng. Ông được coi là thuộc bộ Tứ Bất Tử của người Việt.
– Nguyễn Không Lộ Giác Hải được thờ làm tổ nghề đồng của làng Phước Kiều, Quảng Nam. Ông cũng là Thánh Nguyễn, vì ông mang họ Nguyễn và vì ông thường xuyên bị đồng hoá với Nguyễn Minh Không. Ở một số nơi thờ ông Nguyễn Minh Không thì tôi lại gặp Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Không Lộ, tiêu biểu là đền thờ Trâu vàng ở bên Hồ Tây, nơi có sự tích trâu vàng. Ở làng Trà Đông, Nguyễn Không Lộ Giác Hải chính là vị tổ họ Nguyễn.
– Thánh Láng, Từ Đạo Hạnh tổ nghề chèo và múa rối ở đây lại trở thành vị tổ họ Vũ. Thánh Láng cũng được coi là thuộc bộ Tứ Bất Tử của người Việt.
Làng Trà Đông không giữ được sắc phong, nhưng tôi nhận được là trong sắc phong có nói rõ ba vị thánh này là Đồng Thánh, nhưng lại được dịch và hiểu là vị họ Nguyễn và vị họ Vũ người đồng làng, rồi đồng học nghề đồng với thánh Nguyễn Minh Không. Có lẽ khi nào tìm lại sắc phong thì mới kiểm chứng được thông tin này.
Vì Minh Không, Không Lộ và Bát Hải, đều là trạng thái Vô cực dương, nên ba vị thánh này tạo nên bộ Vô cực dương trong đó
– Nguyễn Minh Không là Đồng Khí Thổ,
– Từ Đạo Hạnh là Đồng Mộc Hoả
– Nguyễn Giác Hải là Đồng Kim Thuỷ
Trước khi đền thờ tổ nghề Trà Đông, tôi vào đền Mẫu cạnh đền thờ tổ nghề tôi nhận được chữ Đồng Mẫu. Vậy Đồng Mẫu là Vô Cực Âm, đối xứng của Tam Thánh Vô Cực Dương.
===
Ở làng Trà Đông, tôi hỏi thần Đồng Thạch Cổ là tôi cần làm gì thì được bảo là cứ đi đi, nên sau đó tôi đi tiếp đến đền Đồng Cổ ở làng Mỹ Đà, xã Hoằng Minh (sau sáp nhập vào xã Hoằng Đức), huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hoá, mà nằm ở phía Đông tỉnh Thanh Hoá so với đền Đồng Cổ Đan Nê nằm ở phía Tây Thanh Hoá.
Một anh cùng đoàn vì đã đi cả hai đền Đổng Cổ, nói cho tôi rằng đền Đồng Cổ ở Mỹ Đà có viên đá xanh hoa sen. Dựa vào chữ Mỹ Đà và viên đá sen xanh này, nên tôi đoán rằng đền Đồng Cổ Mỹ Đà là đền âm, đối xứng với đền Đồng Cổ Đan Nê là đền dương, mà ở Đồng Cổ Đan Nê tôi đã gặp vị nam thần Đồng Cổ rồi thì nhất định sang Mỹ Đà tôi sẽ găp vị nữ thần Đồng Cổ.
Đúng như dự đoán của tôi, khi vừa đến đền Đồng Cổ, tôi gặp bác giữ đền là nữ, bác chào tôi và mở cửa đền cho tôi. Trong lúc đợi bác mở cửa, tôi đọc giới thiệu về đền, sau đó ra đứng trước cửa đèn. Thần Đồng Cổ lúc này hiện ra hình nữ màu trắng, bên dưới là tiên nữ sen trắng, bên trên tiên chim trắng xoay tròn, hoá thân từ hương hoa sen. Vị nữ thần này tên là Đồng Liên Hoa, chính là bản thể âm đối xứng của Đồng Thạch Cổ.
Thần tích thần Đồng Cổ (xã Hoằng Đức, Hoằng Hóa) ghi lại rằng:
“Lại nói lúc đó Lý Thái Tông còn đang là Thái tử, chưa lên ngôi vua, nhưng đã đem quân đi dẹp giặc Chiêm, khi tiến quân đến đất Đan Nê, huyện Yên Định được thần Đồng Cổ hiển linh báo mộng. Trong một lần tiến quân đến nơi đồn trú của giặc Chiêm, hai bên đại giáp chiến một trận. Đương lúc thế trận còn chưa phân thắng bại thì Thái tử cho quân rút về Trường An. Qua địa giới trang Mỹ Cụ, huyện Cổ Đằng, phủ Hà Trung là lúc giữa trưa, bỗng thấy trời nổi mưa gió, sấm chớp dữ dội, không thể tiến quân tiếp được, Thái tử bèn dừng xa giá, cho quân nghỉ lại ở đây.
Trong khoảnh khắc thì trời quang mây tạnh trở lại. Thái tử mới nhận ra địa hình của bản trang như một đóa hoa sen, được che bởi một đám mây mờ. Thái tử cho là sự lạ, lập tức cho lập đàn tế ngay tại chỗ và đốt hương ngầm khấn.
Đến nửa đêm bỗng thấy một vị thần nhân dáng hình uy nghi như người trong mộng trước đây, đứng ở trên đàn tế tự xưng “Ta là Sơn Thần Đồng Cổ, theo vua đi dẹp giặc. Nay thấy nơi đây là đất linh thiêng cho nên hiển ứng”. Nói xong tự nhiên bay lên trời biến mất. Lại thấy một dải mây vàng tựa như tấm lụa từ trên trời giáng xuống ngay giữa đàn tế. Trong đám mây có viết hai chữ “Bảo Hựu”. Một lát sau thì dải lụa biến mất (đó là mùng 10 tháng giêng là ngày “Linh hiện”).”
Trong sự tích này
– Sơn Thần Đồng Cổ là Thái sơn, nam thần Đồng Cổ
– Dải mây vàng tựa tấm lụa Bảo Hựu giáng xuống, Linh Hiện, là nữ thần Đồng Cổ.
Thần Đồng Cổ chỉ hiển ứng ở đây, chứ thần không trụ ở đây, mà nữ thần Bảo Hựu mới người giáng xuống đây. Nữ thần là sự kết hợp của
– hoa sen đất hay đất hoa sen
– dải mây mờ trên trời
– chỉ khi hai lưỡng nghi này được kết nối, qua dải lụa đánh vào tâm hoa sen thì thần mới linh hiện.
Sự tích viết tiếp
“Bấy giờ Thái tử mới cho là có thần linh ứng phù trợ, bèn cấp tốc cử giá tiến quân vào đồn giặc, giáp chiến một trận. Giữa trận tự nhiên nổi lên ba tiếng trống đồng lớn vang như tiếng sấm dậy. Quân giặc thấy vậy tưởng như trời đang trợ giúp cho quân ta, bèn cùng nhau bỏ chạy tan tác, không dám chống lại quân ta, thế là nhẹ nhàng mà giặc lui quân. Đẩy lui quân giặc, Thái tử khải hoàn trở về triều đình, mở tiệc lớn ăn mừng, khao thưởng ba quân tướng sĩ.
Khi lên ngôi, vua Lý Thái Tông bèn lệnh cho đình thần đem sắc chỉ về bản trang, truyền cho dân dựng đền thờ trên chỗ đất Hoa Sen xưa từng là nơi lập đàn tế làm nơi hương khói phụng thờ.
Lại cấp cho dân trang 70 quan tiền để làm tiền công quỹ hương khói. Còn cấp cho dân trang 30 quan để làm tiền công quỹ sửa sang đền miếu. Ngoài ra còn miễn việc binh lương phu dịch trong 3 năm. Bao phong mỹ tự cho thần là Thượng đẳng phúc thần. Ngàn năm thờ cúng hưởng lộc nước mãi mãi lấy đó làm hằng lệ vẻ vang thay.
Sắc chỉ cho phép trang Mỹ Cụ, huyện Cổ Đằng, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hoa được làm dân hộ nhi phụng thờ thần hương hỏa muôn đời chính tại nơi đền thiêng này.”
Tuy nhiên, ngôi đền Đồng Cổ này theo như dân làng là cổ hơn cả ngôi đền Đồng Cổ Đan Nê, nghĩa là cả hai đền này phải có từ thời Văn Lang. Theo dân làng nói rằng
– Đền Đồng Cổ Đan Nê là nơi làm việc, là chốn công quyền, mang tính dương
– Đền Đồng Cổ Mỹ Đà là nơi nghỉ ngơi, mang tính âm
Những bằng chứng cho thấy rõ ràng đền Đồng Cổ này mang tính âm
– Tên làng Mỹ Đà hiện nay & tên trang Mỹ Cụ, huyện Cổ Đằng, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hoa ngày xưa đều là tên nữ
– Biểu tượng đất hoa sen và viên đá cổ sen xanh trước hương án là biểu tượng âm
– Ngoài tên gọi Đồng Cổ, đền có tên gọi khác là ít phổ biến hơn là Liên Hoa linh từ do địa thế của làng và vị trí ngôi đền tọa lạc trông giống như một đóa hoa sen. Tên của đền Liên Hoa linh từ, cũng mang tính âm, tính ẩn
– Thế đất Nhị nguyên Kim Mộc : Đền được dựng ở vị thế đắc địa, “phía trước có mộc tinh làm án, phía sau có kim tinh làm gốc tựa, bên trái thuộc kim, bên phải thuộc mộc. Tất thảy đều chầu vào chính đất hoa sen”. Thế đất được miêu tả sau dựa vào kim tinh, trước được chắn bởi mộc tinh, rõ ràng là thế đất âm, âm ở trung tâm thì mới cần ẩn và dựa, còn nếu dương ở trung tâm thì sẽ phải oai vệ, phong quang, toả sáng.
– Thiết kế gốc của đền là chữ Nhị, thiết kế chuyên cho các đền âm : Theo các cụ cao niên trong làng, trước đây, ngôi đền được thiết kế theo hình chữ Nhị, bao gồm : Nhà tiền đường – 5 gian và nhà chính tẩm – 3 gian. Phía trước đền (hướng Tây Bắc) là hồ bán nguyệt, tạo ra thế tụ thủy cho “chính đất hoa sen” này. Phía sau hồ bán nguyệt là bức bình phong án ngữ, điểm thêm cho “mặt tiền” của ngôi đền nét đẹp riêng. Bước qua bức bình phong sẽ đến với nghinh môn của đền, được xây dựng 3 gian, lợp ngói, mở 3 hệ thống cửa. Từ nghinh môn đi vào bái đường (sân); hai bên bái đường là giải vũ, cuối cùng là đền thờ chính.
– Gian trung tâm của đền thờ Nhị vị có liên hệ dòng máu : Ban chính giữa thờ Mai Hắc Đế và Mai Thiếu Đế là trạng thái Nhị Nguyên. Mai là hoa thời khắc chuyển giao năm mới và năm cũ, Mai là ban chuyển giao hôm qua và hôm nay. Muốn chuyển tiếp thì phải có nhị nguyên. Như vậy gian trung tâm ban thờ lại là ban chuyển tiếp về thời vận.
– Cách bố trí ban thờ đặc trưng cho các đền thờ nữ thần ví dụ như đền của đạo Mẫu là rất đông thần và ban chính giữa là 2 vị, chứ không phải 1 hay 3. Ở đền Đồng cổ Mỹ Đàn, bên phải thờ Bác Hồ, hay Thanh Long, song hành bên trái thờ một vị phu nhân tên là Phương Dung. Thanh Long là trạng thái âm dương song hành, đi cùng phượng thành Long phượng. Long phượng là Thái dương đi cùng Thái âm, nghĩa là Lưỡng Nghi. Cho dù tượng Bác Hồ được đưa vào đền thờ sau này, việc pha trộn các vị thần không cùng thời kỳ, không rõ gốc tích, không rõ lý do, ẩn sau vị thần chính luôn là đặc trưng của đất âm hoặc đất song hành âm dương, và nếu chúng ta tin vào sự linh thiêng của các vị thần, thì họ luôn là sức mạnh ẩn đằng sau người dương, dẫn đắt người dương cách bố trí đền phù hợp.
Chữ Nhị chính là chữ dành cho Nữ, vì đặc trưng của tính nữ là tính Nhị Nguyên, tính Lưỡng Nghi. Theo tích, Lý Thái Tông thấy thần Đổng Cổ ở đây linh hiện ở hai dạng
– Hoa sen (đất) & Đám mây (trời) là Mộc trong Kim
– Dải lụa giáng xuống là sự kết hợp và chuyển hoá giữa đất và trời là Kim nối Mộc
Tôi có hỏi chuyện với bác từ về trải nghiêm cá nhân của bác về thần trông đền. Kinh nghiêm của tôi là người trông đền phải là người có phận, có tâm với thần, nên mới làm việc cho thần. Bác kể là thần hiện ra (dạng nam) bảo bác phải dọn dẹp đất quanh đền, nên bác đã tự bỏ tiền mua đất, san lấp đất sình lầy tù đọng rồi trồng sả, môt loài thân thảo có tính khử lạnh và mùi, nghĩa là có tính kim.
Sau khi đọc tích của đền, tôi nhận là góc nhìn của tôi về nữ thần Đồng Cổ là từ đất đi lên theo âm, luồng và hương, ngược với cách nhìn dương mà Lý Thái Tông đã mô tả về thần là từ trời giáng xuống điểm trung tâm, là nhìn theo vị, hình và sắc
– Lý Thái Tông nằm nghỉ (giữa trạng thái rất động của cuộc chiến) ở trên đất hoa sen xanh và thấy trên đầu là đám mây, rồi có dải lụa vàng từ trên trời giáng xuống tâm sen.
– Tôi đứng trên thế đất hoa sen xanh thấy hoa vươn lên, toả hương, hương sen quyện lại xoay tròn thành con chim trắng. Tôi thấy hoa sen màu trắng, nhưng sắc đất chính là màu xanh ghi xám của thần Đồng Thạch Cổ, nên tôi đoán chữ xanh ở đây được dịch từ chữ Thanh.
Thực ra, nữ thần luôn khó nhận ra hơn nam thần vì đặc trưng của tính nữ là đồng hoá trong tính nam (Đồng Cổ), ẩn sau tính nam ở trạng thái nửa có nửa không (Linh từ), liên kết với tính nam (Liên hoa). Đồng Cổ Sơn Thần, có thể là Đồng Thạch Cổ mà tôi gặp ẩn sau là Đồng Liên Hoa.
===
Hai đền Đồng Cổ ở Thanh Hoá là bộ đền đôi Âm dương hoàn toàn đối xứng, như trường hợp Miếu Đồng Cổ ở làng Nguyên Xá và đền Đồng cổ ở làng Đông Xã, Hà Nội.
– Miếu Đồng Cổ ở làng Nguyên Xá Hà Nội lấy chân hương từ đền Đồng Cổ Mỹ Đà Thanh Hoá
– Đền Đồng Cổ ở làng Đông Xã, quận Ba Đình, Hà Nội và đền Đồng Cổ Đan Nê, đền Đồng Cổ Mỹ Đà ở Thanh Hoá đều có liên quan đến sự tích trống đồng và thần Đồng Cổ phù trợ Lý Thái Tông đánh giặc Chiêm Thành
Đền Đồng Cổ Mỹ Đà thờ Đồng Cổ Sơn Thần, Đền Đồng Cổ Đan Nê nằm ở núi Tam Thai, còn thần Đồng Cổ làng Đông xã có tích liên quan đến Tản Viên Sơn Thánh, mà được thờ ở đình Đông Xã.
Khi đến thăm làng Đông Xã, tôi đã hỏi bác từ giữ đình làng về cái nhà thờ rất bất thường nằm chình ình giữa làng Đông Xã. Theo quan sát của tôi, hầu hết thế đất ở các nhà thờ đều là thế núi (núi bản thổ nằm sâu ở tầng long mạch, chứ núi không luôn nổi lên ở tầng bề mặt) và có mạch khí trời đất dạng cột mà hoàn toàn đo lường được, cho nên thực dân Pháp sau khi đánh giá, đã xây nhà thờ trấn vào các điểm đó.
Bác từ trao đổi với tôi rằng đình cũ của làng Đông Xã nằm giữa làng. Giặc Pháp đã cho xây ngay trước sân đình một cái nhà thờ, đối diện với đình làng, như thách thức thành hoàng làng – Tản Viên Sơn Thánh. Các cụ trong làng thấy chướng mắt nên đã phải di dời đình làng đến địa điểm cạnh chùa để xây lại đình. Cho nên đình Đông xã hiện này nằm trên mặt đường Thuỵ Khuê và sát cạnh chùa làng.
Theo lời kể này, tôi đã đến khu đất cũ của làng Đông Xã mà nằm giữa làng, tôi gặp mạch đá chân núi Tản Viên. Việc một mạch núi trải dài hàng chục km và chìm sâu xuống dưới đất rồi lại nổi lên trên mặt đất trong địa chất học là hiện tượng vô cùng bình thường. Tôi cho rằng bằng thiết vị hiện đại bọn Pháp đã xác định được mạch núi rất đặc biệt ở đình Đông Xã và việc đình Đông Xã thờ thần Tản Viên cũng cho thấy điều đó, cho nên để phá long mạch, bọn chúng đã cho xây nhà thờ ở đây.
Các tích của làng Hồ Khẩu, Trích Sài và một số làng quanh Đông Xã đều nói về một ngọn núi thiêng bên hồ Tây. Tôi đã đi xung quanh Hồ Tây và thấy rằng ngọn núi thiêng đó chỉ có thể là long mạch núi Tản Viên, mà đi về làng Đông Xã. Việc làng Đông Xã thờ thần Tản Viên là minh chứng cho việc này.
Phong thuỷ là làng Đông Xã dựa núi, uốn sông, nhìn hồ, có thể nói là đẹp tựa thiên thai, rất đối xứng với phong thuỷ tam thai của làng Đan Nê.
– Sông Hồng, sông Tô Lịch đối với sông Mã
– Núi Tam Thai đối với núi Ba Vì, quận Ba Đình.
– Đồng Cổ Sơn Thần đối xứng với Tản Viên Sơn Thánh. Có thể nói rằng Tản Viên Sơn Thánh chính là Đồng Cổ Sơn Thần, hoặc thần Đồng Thạch Cổ.
Nếu như giữa hai đền Đồng Cổ ở Thanh Hoá là làng đúc đồng Trà Đông, nơi có tượng đất của Nguyễn Minh Không, tổ nghề đúc đồng, thì giữa hai đền Đồng Cổ ở Hà Nội là làng đúc đồng Ngũ Xã, nơi cũng có đền thờ tổ nghề Nguyễn Minh Không.
Lửa đúc đồng không thể là lửa đơn, mà luôn là nhiều lửa đồng thời hợp lại nhưng thống nhất. Các làng đúc đồng luôn có thế phong thuỷ cho phép lấy nhiều mạch lửa từ các ngọn núi thiêng ờ rất xa. Khi Nguyễn Minh Không đến làng Trà Đông dạy nghề đúc đồng cho dân chúng, thực chất trước đó ông đã khai thông phong thuỷ cho làng. Nhưng lửa đồng không thể được khơi thông bởi một người, mà phải của một tập thể có tính Đồng tâm. Dân làng bằng cách thực hành nghề đúc động đã tiếp tuc vận hành mạch phong thuỷ này. Ngay từ thời Văn Lang, xứ Thanh nói chung và Trà Đông nói riêng đã là một trung tâm đúc đồng lớn.
Để đúc được trống đồng, luôn luôn phải có mạch lửa của thần Đồng Cổ. Con đường tôi đi từ đền Đồng Cổ Đan Nê đến làng Trà Đông, mà luôn có thần Đồng Thạch Cổ trụ, chính là tuyến long mạch lửa, và ngọn lửa tôi gặp ở đình làng là một ngọn lửa Đổng Cổ.
===
Chuyến đi này đã cho tôi xếp lại chính xác hơn nữa bộ Tứ Bất Tử của người Việt về Tứ tượng theo nhắc nhở của thần Đồng Thạch Cổ
– Thần Đồng Cổ Thái dương
– – – Phủ Đổng Thiên Vương, ứng với núi Đổng ở Tam Thái, ông Công của bô Đầu Nhau
– – – Tản Viên Sơn Thánh, ứng với núi Nghễ ở Tam Thai, ông Táo của bộ Đầu Nhau
– Thần Đồng Cổ Thái Âm là Đồng Liên Hoa, đồng thời là Tiên Hương và Tiên chim trắng. Đây là ba biểu tượng của bà, mẹ và vợ của Lạc Long Quân.
– Thần Đồng Cổ Vô dương là ba vị Đồng Thánh, Thánh Láng, Thánh Nguyễn và Thánh Vũ.
– Thần Đổng Cổ Vô âm là Đồng Mẫu
Đây là thông điệp về việc cần sắp xếp lại trật tự mà tôi nhận được từ thần Đồng Thạch Cổ. Thực ra trật tự Tứ Bất Tử này chẳng có gì mới, mà vô cùng cũ. Ở đâu đâu trong hệ thống thờ cúng của người Việt, chúng ta cũng thấy các vị này, với trật tự này, bởi vì Đồng Cổ là các vị thần tối cổ, chỉ có điều là trong Công nguyên mà tính dương hiện, tính nữ ẩn, chúng ta có bộ Tứ Bất tử nửa ẩn và nửa hiện như đã từng biết mà thôi.