CHÍN TẦNG MÂY
Dễ tức cười con cóc nó leo thang
Trèo lên tụt xuống, cứ trương gan mà trèo?
– Chín tầng mây con cóc nỏ thèm leo
Cóc ở hang sâu, cóc kêu một tiếng, mưa gieo bốn bề!
—o—
Trên trời có chín từng mây
Dưới sông lắm nước, núi nay lắm vàng
—o—
Chớ đánh rắn trong hang,
Chớ đánh đại bàng trên chín tầng mây
—o—
Lầu cao chín tầng, con thằn lằn còn chắc lưỡi
Bụi bờ lắt lẻo, con coi cói cũng ướt lông
Ai ơi xin thấu cho cùng
Nơi giàu sang em không chuộng, nơi khó mặn nồng em cứ theo
Người xưa không xây nhà cao chín tầng cho nên lầu cao chín tầng là lối nói ví von rằng lầu rất cao, cao chín tầng mây.
—o—
Mỗi tháng có nửa tuần trăng
May cho đấy ở cho bằng lòng đây
Chàng về giục gió khuyên mây
Chín lần mây đệm chưa tày đời ta
Chín lần mây đệm cũng là chín tầng mây.
Chín tầng mây cũng liên quan đến chín mặt trời mà Hậu Nghệ bắn.
—o—
CHÍN CÕI – CỬU TRÙNG – CHÍN CÕI CỬU TRÙNG : là chín tầng, chín cõi trời theo quan niệm Phật giáo, gồm có:
– Vô vân,
– Phước sinh,
– Quảng quả,
– Vô tưởng,
– Vô phiền,
– Vô nhiệt,
– Thiện kiến,
– Thiện hiện,
– Sắc cứu cánh.
—0—
Muốn lên trời, trời không có ngõ
Muốn xuống đất, đất nỏ có đàng
Phải chi em hóa đặng con chim vàng
Tìm lên chín cõi, xem dạ chàng thử sao
—o—
Chín cõi này liên quan đến mẫu Cửu Trùng Thiên & Cửu Thiên Huyền Nữ, cũng như liên quan đến đấng Huyền Thiên.
CHÍN PHƯƠNG TRỜI, MƯỜI PHƯƠNG ĐẤT
CHÍN PHƯƠNG TRỜI, MƯỜI PHƯƠNG PHẬT
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
—o—
Cánh buồm bao quản gió xiêu
Ngàn trùng biển rộng, chín chiều ruột đau
Thương thay chín chữ cù lao
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình
—o—
Nằm nghe con nhạn kêu ngoài Bắc
Em nhớ tới anh ruột thắt chín tầng.
“Chín chiều ruột đau” chính là chín phương, trong chín phương trời, mười phương đất. “Ruột thắt chín tầng” cũng tương tự
Trong bộ phương,
– Mỗi số đếm phương có ý nghĩa khác nhau
– – – tứ phương :
– – – bốn phương : bốn phương tám hướng, bốn phương trời
– – – ngũ phương
– – – năm phương
– – – chín phương
– – – thập phương
– – – mười phương
– Sau đó, lại có các loại phương khác nhau
– – – phương đất,
– – – phương trời,
– – – phương phật,
– – – phương xa …
Nhất vui là hội Trần Thương
Đủ đình đủ đám, thập phương tiếng đồn
—o—
Ai đi trẩy hội chùa Hương
Làm ơn gặp khách thập phương hỏi dùm
Mớ rau sắng, quả mơ non
Mơ chua sắng ngọt biết còn thương chăng?
—o—
– Đàn bà sao quá vô duyên
Mặc quần thủng đáy hớ hênh kia kìa
– Có gì đâu mà kia nọ, nọ kia
Chẳng qua vô ý mới chìa nó ra
Nó cho tôi làm mẹ, anh làm cha
Giữ dòng, giữ giống quốc gia hùng cường
Anh từng đi tám hướng, mười phương
Vào Nam ra Bắc, hội Nõ Nường xem chưa?
—o—
Em đi khắp bốn phương trời
Chẳng đâu lịch sự bằng người ở đây
Gặp người má đỏ hây hây
Răng đen rưng rức tóc mây rườm rà.
—o—
Anh đây lên thác xuống ghềnh
Thuyền nan đã trải, thuyền mành thử chơi
Đi cho khắp bốn phương trời
Cho trần biết mặt cho đời biết tên
—o—
Ðèn trời thắp sáng bốn phương
Ðèn tôi sáng tỏ đầu giường nhà tôi.
—o–
Vọng Phu cảnh đẹp núi Nhồi
Có người chinh phụ phương trời đăm đăm
—o—
Em lén vô nhà vuông ngói, em mở trăng trói cho chàng
Anh lo phương ẩn mặt, tầm đàng lánh thân.
—o—
Lụt bão rồi, ngành ngọn xơ rơ,
Con chim không nơi đậu, biết dật dờ phương nao
—o—
Chàng đi trấn chốn phương xa
Nhớ chăng dải đất Cầu Huê quê mình
Bến trăng sóng nước lung linh
Tấm nâu thiếp nhuộm tình riêng Huê Cầu.
CHÍN TẦNG ĐỊA NGỤC
Chín tầng địa ngục là đề tài quen thuộc trong tranh thờ của đồng bào dân tộc và tranh thờ Đạo giáo.
CHÍN CÕI ÂM TY
Thác xuống âm ty, hồn đi chín suối
Cặp con mắt tui còn nuối cái nghĩa mình
—o—
Chín cõi âm ty cũng tương tự như chín tầng địa ngực nhưng liên quan đến âm thanh và linh hồn nhiều hơn là hình tướng, thân xác và trải nghiệm khi còn sống của vong hồn.
CHÍN SUỐI – CỬU TUYỀN
Về nơi chín suối
—o—
Ngậm cười nơi chín suối
—o—
Nào khi gánh nặng anh chờ
Qua cầu anh đợi bây giờ em quên
Kiếp này đã lỡ làng duyên
Kiếp sau xin đợi cửu tuyền gặp nhau
—o—
Chín suối là các luồng vân hành của linh hồn sau cái chết.