Cầu Ô Kiều và cầu Thước Kiều gắn với biểu tượng về con ngựa
– Cầu Ô Kiều gắn ngựa Ô (về âm thanh) hoặc ngựa Bạch (ngưa hình đặt ở các đình phủ)
– Cầu Thước Kiều là ngựa kiều hoặc ngựa Hồng (ngựa hình đăt ở các đình phủ)
NGỰA KIỆU
Cầu cao ván yếu
Ngựa kiệu tứ linh
Em đi đâu tăm tối một mình
Hay là em có tư tình với ai?
Bài ca dao này nói về cây cầu cao ván yếu, chính là cầu kiều.
NGỰA Ô
Ngựa ô chẳng cưỡi, cưỡi bò
Đường ngay không chạy, chạy dò đường quanh
—o—
Ngựa ô trổ mã thành rồng
Anh đây trổ mã thành chồng của em.
—o—
Ngựa ô anh thắng kiệu vàng
Anh tra khớp bạc đưa nàng về dinh
—o—
Ngựa ô chân móng gót hài
Có hay cho lắm đường dài cũng kiêng
—o—
Nghiêng mình bước xuống cầu yên
Còn rùa bơi mặt nước, con chim chuyền cành mai
Bãi dài có nhảy lai rai
Cất lên một tiếng, bạn của ai nấy nhìn
Đêm nằm con nhện đem tin
Ai hò văng vẳng giống in tiếng chàng.
Ai về nhắn với bà cai
Giã gạo cho trắng, đến mai dâu về
Dâu về dâu chẳng về không
Ngựa ô đi trước, ngựa hồng đi sau
Ngựa ô đi tới vườn cau
Ngựa hồng chậm rãi đi sau vườn dừa
—o—
Chiều chiều mượn ngựa ông Đô,
Mượn kiều chú lính đưa cô tôi về.
Cô về chẳng lẽ về không,
Ngựa ô đi trước, ngựa hồng theo sau.
Ngựa ô đi tới Quán Cau,
Ngựa hồng đủng đỉnh còn sau Gò Điều.
Ngựa ô là ngựa đen đi trước, ngựa hồng là ngựa đi sau. Hai con ngựa này cũng tương tự như hai con ngựa đứng ở hai bên của đình, một con màu hồng và một con màu trắng. Đôi ngựa này có vai trò kết nối âm dương, đảm bảo vận hành.
Hai địa danh được nêu trong bài ở Phú Yên
– Quán Cau Đèo Quán Cau ở làng Mỹ Phú, còn chợ Quán Cau ở làng Phong Phú, đều thuộc xã An Hiệp, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Tại đây nổi tiếng có giống ngựa thồ rất tốt. Phía đông đèo Quán Cau là đầm Ô Loan, thuộc Bình Định. Về địa danh Quán Cau, có câu chuyện sau: Ngày xưa, nơi chân đèo Quán Cau có một bà cụ già không rõ từ đâu đến. Bà cất quán bán trầu cau, khách bộ hành qua đèo khá dài nên dừng chân giải khát, mua trầu cau ăn nghỉ rồi tiếp tục hành trình. Người đi ra Bắc đến chân đèo thì chờ người bạn đường, cũng mua trầu cau ăn rồi tiếp tục trèo đèo. Vì thế có tên đèo Quán Cau.
– Gò Điều Tên một xóm thuộc ấp Bình Quang, thôn Phú Điềm (xã An Hòa, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên ngày nay). Giữa xóm có cây điều to lớn tán lá um tùm, trải bóng mát một vùng, khách qua lại thường dừng chân nghỉ mát. Về sau, khi làm đường cây điều bị chặt đi nhưng xóm vẫn được gọi là Gò Điều.
—o—
NGỰA HỒNG
Cưới em mười chín con trâu
Mười hai con lợn thì dâu mới về
Dâu về dâu chẳng về không
Dâu thì đi trước ngựa hồng theo sau
—o—
Ai về đường ấy hôm nay
Ngựa hồng ai cưỡi, cổ tay ai cầm?
Ngựa hồng đã có tri âm
Cổ tay đã có người cầm thì thôi
—o—
Ở đây có đất đế vương,
Ai về Bồng Báo cầm cương ngựa hồng
—o—
Em về Kẻ Chợ em coi
Kìa dinh quan lớn, kìa chòi bắn cung
Con ngựa hồng bao tiền, bao hậu
Các quan trào áo bậu lưng đai
Súng anh vác vai, hỏa mai anh tọng nạp
Anh bắn mai này đùng đùng dạ dạ
Anh bắn mai này trả nợ nhà vương
Thương anh gối đất nằm sương
Đường ra Kẻ Chợ xem voi
Kìa bãi tập trận nhà chòi bắn cung
Bắn con ngựa hồng báo tiền báo hậu
Các quan võ thần mặc áo nậu thắt lưng xanh
Khẩu súng vác vai chân anh quỳ đạp
Anh đánh trận này, anh đuổi trận này giả nợ nhà vua.
Bõ công dãi nắng dầm mưa.
—o—
Cô ba, cô bảy có chồng
Xe kéo chạy trước, ngựa hồng chạy sau.
—o—
Ai về nhắn với bà cai
Giã gạo cho trắng, đến mai dâu về
Dâu về dâu chẳng về không
Ngựa ô đi trước, ngựa hồng đi sau
Ngựa ô đi tới vườn cau
Ngựa hồng chậm rãi đi sau vườn dừa
Chiều chiều mượn ngựa ông Đô,
Mượn kiều chú lính đưa cô tôi về.
Cô về chẳng lẽ về không,
Ngựa ô đi trước, ngựa hồng theo sau.
Ngựa ô đi tới Quán Cau,
Ngựa hồng đủng đỉnh còn sau Gò Điều.
—o—
Em là thân phận nữ nhi
Thầy mẹ thách cưới làm chi bẽ bàng
Tiền thời chín hũ lồng quang
Cau non trăm thúng họ hàng ăn chơi
Vòng vàng kéo đủ mười đôi
Nhẫn ba trăm chiếc, tiền thời mười quan
Còn bao của hỏi của han
Của mất tiền cưới của mang ta về
Cưới ta trăm ngỗng nghìn dê
Trăm ngan nghìn phượng ta về làm dâu
Cưới ta chín chục con trâu
Ba trăm con lợn đưa dâu về nhà
Chàng về nhắn nhủ mẹ cha
Mua tre tiện đốt làm nhà ở riêng
Chàng về nhắn nhủ láng giềng
Quét cổng quét ngõ, ra giêng ta về
Ta về ta chẳng về không
Voi thì đi trước ngựa hồng theo sau
Ba bà cầm quạt theo hầu
Mười tám người hầu đi đủ thì thôi
NGỰA BẠCH
Trên trời có đám mây xanh
Có con ngựa bạch chạy quanh gầm trời
Đôi ta muốn lấy nhau chơi
Cái duyên không định, ông trời không xe
Những nơi chết rấp bờ tre
Cái duyên cứ định trời xe em vào
Ba đồng một sợi chỉ đào
Áo gấm không vá, vá vào áo tơi
Cực lòng thiếp lắm chàng ơi
Biết rằng lên ngược xuống xuôi cũng đành
Có con ngựa bạch chạy quanh gầm trời
Đôi ta muốn lấy nhau chơi
Cái duyên không định, ông trời không xe
Những nơi chết rấp bờ tre
Cái duyên cứ định trời xe em vào
Ba đồng một sợi chỉ đào
Áo gấm không vá, vá vào áo tơi
Cực lòng thiếp lắm chàng ơi
Biết rằng lên ngược xuống xuôi cũng đành
—0—
Muốn lấy con tao
Bắc cầu qua bể
Làm rể cho lâu
Nuôi lợn mười năm
Chăn tằm mỏi gối
Nhà ngói năm gian
Bức bàn cho rộng
Ông Cống, ông Nghè
Dù che ngựa cưỡi
Dâu về nhắn nhủ:
Các cô hàng xóm láng giềng
Quét sân dọn cỏ, tháng giêng dâu về
Dâu về dâu chả về không
Ngựa bạch tới trước, rượu nồng tới sau
—o—
NGỰA ÔNG
Nhong nhong nhong nhong
Ngựa ông đã về
Cắt cỏ Bồ Đề
Cho ngựa ông ăn
—o—
NGỰA ÔNG ĐÔ
Chiều chiều mượn ngựa ông Đô,
Mượn kiều chú lính đưa cô tôi về.
Cô về chẳng lẽ về không,
Ngựa ô đi trước, ngựa hồng theo sau.
Ngựa ô đi tới Quán Cau,
Ngựa hồng đủng đỉnh còn sau Gò Điều.
—o—
Chiều chiều mượn ngựa ông Đô
Mượn kiều chú lính đưa cô tui dìa
Dìa dầy chẳng lẽ dìa không?
Ngựa ô đi trước, ngựa hồng theo sau
Ngựa ô đi tới Quán Cau
Ngựa hồng lẽo đẽo theo sau chợ chiều
Chợ chiều nhiều khế ế chanh
Nhiều cô gái lứa nên anh chàng ràng
—o—
Chiều chiều mượn ngựa ông Đô
Mượn ba chú lính đưa cô tôi về
Đưa về chợ Thủ bán hũ bán ve
Bán bộ đồ chè bán cối đâm tiêu
—o—
Chiều chiều mượn ngựa ông Đô
Mượn kiều chú Xã đưa cô tôi về
Ngựa ô đi tới vườn cau
Ngựa hồng đủng đỉnh đi sau vườn dừa
Chiều chiều mượn ngựa ông Đô
Mượn ba chú lính đưa cô tôi về
Cô về thăm quán thăm quê
Thăm cha thăm mẹ, chớ hề thăm ai.
NGỰA SẮT CỦA ÔNG THÁNH GIÓNG
NGƯA BUỘC NGÕ ÔNG CAI, NGỰA BUỘC NGÕ ÔNG NGHÈ
Ngựa ai buộc ngõ ông Cai
Xoàn ai mà lại đeo tai bà Nghè
Ngựa ai buộc ngõ ông Nghè
Trâu ai lại buộc bụi tre ông thầy
MẸ CUỘI CƯỠI NGỰA ĐI MỜI QUAN VIÊN
Chú Cuội ngồi gốc cây đa
Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên
Ông thì cầm bút, cầm nghiên
Ông thì cầm tiền đi chuộc lá đa
THÁC NGỰA
Anh muốn tìm dòng nước trong
Nên đi ngược dòng sông Cái
Hay vì bị bùa ngải
Nên anh bỏ bãi lên nguồn?
Thuyền anh dù thuận gió đi luôn
Đến đầu Thác Ngựa cũng phải cuốn buồm trở lui
Thề xưa lời đã nặng lời
Anh cố xa em đi nữa
Nếu chẳng phải ý trời thời cũng khó xa
Anh đi em ở lại nhà
Biển sâu em lặn lội nuôi mẹ già đợi anh
—o—
BẠCH MÃ
—o—
TƯ MÃ
Ướt áo xanh lụy tình Tư Mã,
Khách thiên nhai vẫn lạ mà quen,
Nước non ai kẻ bạn hiền,
Biết ai tâm sự giữa miền sông Hương?
Khách thiên nhai vẫn lạ mà quen,
Nước non ai kẻ bạn hiền,
Biết ai tâm sự giữa miền sông Hương?
LÊN NGỰA
Ba phen lên ngựa mà về
Cầm cương níu lại xin đề bài thơ
Bài thơ ba bốn câu thơ
Câu đợi, câu chờ, câu nhớ, câu thương
Cầm cương níu lại xin đề bài thơ
Bài thơ ba bốn câu thơ
Câu đợi, câu chờ, câu nhớ, câu thương