CA DAO, TỤC NGỮ VỀ CÁT

Loading

CÁT – CẤU TRÚC

HẠT CÁT 
Thà làm hạt cát Tiên Sa
Còn hơn làm mảnh đá hoa trong chùa
—o—
CỒN CÁT
Chiếc tàu Nam Vang chạy ngang cồn cát
Xuồng câu tôm đậu sát cành đa
Thấy em có chút mẹ già
Muốn vô nuôi dưỡng biết là đặng không.
—o—
Nước xanh xanh chảy quanh cồn cát trắng
Con chim phượng hoàng rày vắng tiếng kêu
Ơi người thương ơi, ta nhắn một điều
Dẫu rằng mai quán chiều lều cũng yêu
—o—
ĐỒI CÁT
Đồn Cẩm Phả sơn hà bát ngát
Huyện Hoành Bồ đồi cát mênh mông
Ai ơi, đứng lại mà trông
Kìa khe nước độc, nọ ông hùm già
Việc gì mà rủ nhau ra
Làm ăn cực khổ nghĩ mà tủi thân
BỜ CÁT
Rủ nhau mua tép Trà Ô
Sẵn bờ cát trắng, phơi khô đem về
Trà Ổ hay Trà Ô, Châu Trúc hoặc Bàu Bàng là một cái đầm thuộc khu vực các xã Mỹ Thắng, Mỹ Lợi, Mỹ Đức và Mỹ Thọ, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Đầm Trà Ổ nằm giữa vùng bằng phẳng, được bao bọc bởi những dãy núi cao thấp trập trùng ở phía Bắc, phía Tây và phía Nam. 
—o—
BÃI CÁT
Nhớ khi xưa em nằm bãi cát
Em bỏ mâm vàng hứng bát chuối xanh
Bây giờ nên tiếng nên danh
Chê ta quán nát lều tranh không ngồi
—o—
Hoa sen mọc bãi cát lầm
Tuy rằng lấm láp vẫn mầm hoa sen
Thài lài mọc ở ven sông
Tuy rằng giống tốt vẫn tông thài lài
—o—
Dò chân ra bãi cát dài
Nỡ nào liễu bỏ nhành mai héo sầu
Anh thương em vì bởi miếng trầu
Ông Tơ bà Nguyệt ngồi rồi ước mơ
Giàu sang phú quý, ba bốn bặc giường thờ
Màn the gấm phủ thao rời điểm trang
Bây giờ than thiệt với chàng
Bần mà gặp phú luận bàn làm sao
—o—
Tiên Châu có bãi cát vàng
Có cầu Vạn Củi, có hàng dừa xanh
—o—
Ai sinh ra bãi cát bồi
Để em lo thuyền cạn cho người kém xinh
—o—
Nhớ khi xưa em nằm bãi cát
Em bỏ mâm vàng hứng bát chuối xanh
Bây giờ nên tiếng nên danh
Chê ta quán nát lều tranh không ngồi
—o—
Con cá bống cát nằm trên bãi cát
Con chim thằng chài đậu chiếc thuyền chài
Anh với em nỏ thành gia thất vì ai?
Xưa kia trúc đã làm bạn với mai một cành
—o—

Làm trai đi biển đi sông
Vô đây gặp bãi cát nông mà buồn

—o—

Kỳ Tân, An Chuẩn không xa
Cách một bãi cát phân ra hai làng
—o—

 

Đêm nằm đắp chiếu bịt bùng,
Tai nghe tiếng hát dậy vùng ra đi.
Con rồng nằm bãi cát bày vi,
Vì chưng thương bạn nên ra đi làm vầy.
Ra đi cha đánh, mẹ ngầy,
Không đi bạn ở ngoài này bạn trông.

—o—

Bãi dài cát nhỏ cát to
Thác đi thì mất sống lo kết nguyền

—o—

Ngó ra Hòn Dứa, Hòn Than
Hòn Chùa bãi cát chứa chan nỗi sầu
Anh muốn qua thì bắt nhịp cầu
Thăm nàng tri kỷ dãi dầu nắng mưa

—o—

Đêm nằm đắp chiếu bịt bùng,
Tai nghe tiếng hát dậy vùng ra đi.
Con rồng nằm bãi cát bày vi,
Vì chưng thương bạn nên ra đi làm vầy.
Ra đi cha đánh, mẹ ngầy,
Không đi bạn ở ngoài này bạn trông.

—o—

Bãi cỏ lau khô sầu ai rã rượi
Thỏ núp lùm chờ đợi bóng trăng
Bãi dài cát nhỏ lăn tăn
Phải duyên tiền định ngàn năm cũng chờ

—o—

Ngựa ô chân móng gót hài
Có hay cho lắm đường dài cũng kiêng
Nghiêng mình bước xuống cầu yên
Còn rùa bơi mặt nước, con chim chuyền cành mai
Bãi dài có nhảy lai rai
Cất lên một tiếng, bạn của ai nấy nhìn
Đêm nằm con nhện đem tin
Ai hò văng vẳng giống in tiếng chàng.

CÁT BÌNH HƯƠNG

Chàng khoe chàng lắm văn chương
Đố chàng biết cỏ bên đường bấy nhiêu
– Em về đếm cát bình hương
Bình hương bao nhiêu cát thì cỏ bên đường bấy nhiêu

CÁT BỜ SÔNG

Thấy anh ra vẻ học trò
Lại đây em hỏi con cò mấy lông?
– Em về đếm cát bờ sông
Đếm coi mấy hạt anh nói lông con cò

DOI CÁT

Nước còn quấn cát làm doi
Thương nhau ta phải tài bồi cho nhau
Tay cầm dĩa muối sàng rau
Thủy chung thứ nhứt sang giàu mặc ai

GÒ CÁT

Sớm mai đi chợ Gò Cát
Cây cao bóng mát, cát nhỏ dễ đi
Gái như em, mặt tròn như bông hoa lý
Trai như anh, thấm ý vừa lòng
Em với anh thương thiệt, sao ông tơ hồng không xe?

PHÙ CÁT

Phù Mỹ, Phù Cát cho chí Bình Khê
Xem trong ba huyện, anh mê mình nàng

KẺ CÁT

Đồn rằng kẻ Trọng lắm cau
Kẻ Cát lắm mía, kẻ Mau lắm tiền

CHÙA CÁT

Ngó lên chùa Cát cao lầu
Biệt ly em hỡi bỏ sầu cho anh
Sầu này không biết sầu ai
Cơm ăn không đặng đã hai tháng trời

CÁT – KIM, MỘC, THUỶ, HOẢ, THỔ, KHÍ & ĐẤT, NƯỚC, KHÍ, LỬA

THUỶ CÁT (NƯỚC, THUỶ)

Ghe bầu các lái đi buôn
Đêm khuya ngồi buồn, kể chuyện ngâm nga
Bắt từ Gia Định kể ra
Anh em thuận hòa ngoài Huế kể vô
Trên thời ngói lợp tòa đô
Dưới sông thủy cát ra vô dập dìu
Trên thời vua Thuấn, vua Nghiêu
Ngoài dân, trong triều tòa chính sửa sang
Trên thời ngói lợp tòa vàng
Dưới dân buôn bán nghênh ngang chật bờ
Này đoạn các lái trở vô
Thuận An là chốn thuyền đô ra vào
Vát ra một đỗi khơi cao
Ta sẽ lần vào thì tới Cửa Ông
Nay đà giáp phủ Thuận Phong
Hòn Am, Cửa Kiểng nằm trong thay là …    

—o—

CÁT BIỂN

Dã tràng xe cát biển Đông
Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì

—o—

Bao giờ biển nổi cát vàng,
Thì miền Nam hạ chật đường ngựa xe

—o—

Biển Đông sóng dợn cát đùa
Sánh đôi không đặng lên chùa đi tu

—o—

CÁT SÔNG

Sông Nha Trang cát vàng nước lục
Thảnh thơi con cá đục lội dọc lội ngang
Ðã nguyền cùng em giữ dạ đá vàng
Quý chi tách cà phê đen, ly sữa bò trắng
Anh nỡ phụ phàng nước non.

TRO CÁT (LỬA, HOẢ)

Chùa Hang cát nhỏ như tro
Hang Câu, bãi Ké kể cho thêm phiền

Chùa Hang, Hang Câu, bãi Ké là các địa danh của đảo núi lửa Lý Sơn. Cát Lý Sơn rất to vì là cát san hô moc trên đá núi lửa, nhưng riêng ở Chùa Hang cát rất nhỏ, như là tro húi lửa.

ĐẤT CÁT (ĐẤT & MỘC THỔ)
Trăng rằm đã tỏ lại tròn
Củ lang đất cát đã ngon lại bùi
Em gặp anh đây đã khỏe lại vui
Tam tứ sầu giải hết, mặt tươi như thường
Đất cát là loai đất có pha cát ít đến nhiều. Có rất nhiều loại cây hợp với đất cát. Củ lang trồng trong đất cát, và vị của nó cũng là vị ngọt bùi và ấm của đất cát. Cây mọc trên đất có vị bùi là cây thổ mộc.
CÁT BỤI (KHÍ & MỘC KHÍ)
Trở về cát bụi
—o—
Tan (hoá) thành cát bụi
—o—
Em nghĩ thân em như kiếng lấm lem cát bụi,
Ai đó lau chùi, biết tới buổi nào xong?
Kính tạo nên từ cát nóng chảy rồi để nguội tạo thành khối rắn, có tính kim thổ, còn cát bụi là cát tự do, có tính mộc khí.
ĐÁ CÁT (THỔ)
“Đồn Cẩm Phả sơn hà bát ngát
Huyện Hoành Bồ đá cát mênh mông”
—o—
Chưa đi chưa biết Cửa Ông
Đến đây mới biết đường không lối về
Phu sắng-tẩy ai thuê mà đánh
Thẻ than sàng ai bán mà mua
Nhà quê còn có ngày mùa
Đi nhặt, đi mót hột thừa mà ăn
Ở đây rét đói quanh năm
Đi câu cá: rủi, đi săn: hổ vồ
Khu Bò Đái xương khô rải rác
Bến Lò Vôi mấy xác bồng bềnh
Lạc loài bể khổ mông mênh
Thân vờ xơ xác lênh đênh chét mòn
Trót nghe bầu bạn ra đây
Lạ thung, lạ thổ, lạ cây, lạ nhà
Đồn Cẩm Phả sơn hà bát ngát
Huyện Hoành Bồ đá cát mênh mông
Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa khe nước độc, nọ ông hùm già
Vui gì mà rủ nhau ra
Làm ăn khổ cực nghĩ mà tủi thân.
KIM CÁT = CẮT
Cát có tính kim và vận hành của cát là cắt, cắt thành đơn vị, cắt thành hạt, còn cắt thành tấm, thành miếng, thành đoạn, thành sợi, bằng kéo hay các dụng cụ vật lý thì là cắt. Cát là cắt ở tầng đơn vị cầu trúc và đơn vị vận hành, cho nên bản thân nó đã là kim cát
MỘC CÁT = CÁC
– Mộc cát tứ trụ = đất cát, nước cát (cát sông, cát biển), lửa cát (cát bụi)
– Mộc cát ngũ hành = thổ cát (đá cát hoặc cát sỏi, cát san hô), kim cát, mộc cát (đất cát),

CÁT – VÀNG, TRẮNG

CÁT VÀNG

Trời xanh muối trắng cát vàng
Thứ gì cũng đẹp riêng nàng lầm than

—o—

Tiên Châu có bãi cát vàng
Có cầu Vạn Củi, có hàng dừa xanh

—o—

Bao giờ biển nổi cát vàng,
Thì miền Nam hạ chật đường ngựa xe

—o—

Sông Nha Trang cát vàng nước lục
Thảnh thơi con cá đục lội dọc lội ngang
Ðã nguyền cùng em giữ dạ đá vàng
Quý chi tách cà phê đen, ly sữa bò trắng
Anh nỡ phụ phàng nước non.

—o—

Tư Nghĩa, Cửa Đại là đây
Gành Hàu, núi Quế đá xây nên chùa
Dưới thời bông súng nở đua
Ngó lên trên chùa đá dựng, kiểng giăng
Ngó qua bên xóm Trường An
Ngó xuống Hòn Sụp, cát vàng soi dương

—o—

CÁT TRẮNG

ĐƯỜNG CÁT TRẮNG & BỘT BÌNH TINH

Mâm thau em chùi cám,
Em để dưới ván lại thấy hình
Bột bình tinh em khuấy lộn với đường cát trắng
Mà em vắng mặt mình em chẳng ăn

Bình tinh là loài thực vật thuộc họ dong. Cây bình tinh được trồng để lấy củ, làm thực phẩm và chủ yếu là làm bột. Sau khi thu hoạch củ, người ta mài củ ra thành dạng nhuyễn, ngâm qua nhiều nước, gạn lắng lấy bột. Phần bột thu được mang đi phơi nắng hoặc sấy, sẽ thu được bột bình tinh khô, giống như bột sắn dây.

—o—

ĐƯỜNG CÁT TRẮNG & CHÁO ĐẬU XANH

Đũa vàng dộng xuống mâm vàng
Cháo đậu xanh đường cát trắng, vắng mặt nàng không ngon

—o—

ĐƯỜNG CÁT : Đường cát trắng, đường cát mịn, đường cát to, đường cát nhỏ, đường cát mịn, đường cát sỏi, đường cát nóng, đường cát mát

 

ĐƯỜNG LẮM CÁT & MÁT

Nước Tây Hồ vừa trong vừa mát
Đường chợ Bưởi lắm cát dễ đi
Cô kia bóng bẩy làm chi
Để cho anh ấy đi đi về về.

Giếng Bình Đào vừa trong vừa mát
Đường Bình Đào lắm cát dễ đi
Em ơi má thắm làm chi
Để anh thương nhớ mấy con trăng ni không về

ĐƯỜNG CÁT MỊN & MÁT

Gió Cầu Tấn trưa chiều thổi mát
Đường Quy Nhơn mịn cát dễ đi
Phương Mai, Gành Ráng tương tri
Ngâm câu “Thuỷ tú sơn kì” thảnh thơi

ĐƯỜNG CÁT NHỎ & TRĂNG MÁT

Anh đi trên đường Ba Vát
Anh đạp cát, cát nhỏ
Anh đạp cỏ, cỏ mòn
Yêu nhau thời độ trăng tròn
Bây giờ trăng khuyết vẫn còn yêu nhau

—o—

ĐƯỜNG CÁT NHỎ & BÓNG MÁT

Đường Sài Gòn cây cao bóng mát
Đường Chợ Lớn hột cát nhỏ dễ đi

ĐƯỜNG CÁT NÓNG & ĐÁ DĂM

– Thương anh thì cũng muốn thương
Sợ truông cát nóng, sợ đường đá dăm
– Cát nóng anh cõng em đi
Đá dăm anh lặt, can gì em lo.

– Muốn về Mỹ Á ăn dừa
Sợ truông cát nóng, sợ đèo đá dăm
– Cát nóng, đưa dép anh mang
Đá dăm em lượm còn than nỗi gì!

Đường cát nóng và đá dăm đối xứng với đường cát mịn và mát hoặc đường lắm cát và mát

ĐƯỜNG CÁT NHỎ NHƯ TRO Ở ĐẢO NÚI LỬA

Chùa Hang cát nhỏ như tro
Hang Câu, bãi Ké kể cho thêm phiền

Chùa Hang, Hang Câu, bãi Ké là các địa danh của đảo núi lửa Lý Sơn. Cát Lý Sơn rất to vì là cát san hô moc trên đá núi lửa, nhưng riêng ở Chùa Hang cát rất nhỏ, như là tro húi lửa.

—o—

ĐƯỜNG CÁT & ĐẬU XANH

Đường cát & cháo đậu xanh là biểu tượng của sự rời rạc, lứa đôi xa cách, chia tay trong nhung nhớ, hoặc chủ động chia tay, vì không tương hợp.

Năm tiền một quả đậu xanh
Một cân đường cát đưa anh xuống tàu
– Tàu về có thuở tàu qua
Xin em ở lại nguyệt hoa thì đừng

—o—

Ba đồng một quả đậu xanh
Một cân đường cát đưa anh ra về

—o—

ĐƯỜNG CÁT TRẮNG & CHÁO ĐẬU XANH

Đũa vàng dộng xuống mâm vàng
Cháo đậu xanh đường cát trắng, vắng mặt nàng không ngon

—o—

ĐƯỜNG CÁT NỌ & CHÁO ĐẬU XANH KIA

Mâm đồng chùi sáng để trên ván thấy hình
Cháo đậu xanh kia, đường cát nọ, em nhớ mình quên ăn

—o—

ĐƯỜNG CÁT TRẮNG & BỘT BÌNH TINH

Mâm thau em chùi cám,
Em để dưới ván lại thấy hình
Bột bình tinh em khuấy lộn với đường cát trắng
Mà em vắng mặt mình em chẳng ăn

Bình tinh là loài thực vật thuộc họ dong. Cây bình tinh được trồng để lấy củ, làm thực phẩm và chủ yếu là làm bột. Sau khi thu hoạch củ, người ta mài củ ra thành dạng nhuyễn, ngâm qua nhiều nước, gạn lắng lấy bột. Phần bột thu được mang đi phơi nắng hoặc sấy, sẽ thu được bột bình tinh khô, giống như bột sắn dây.

—o—

ĐƯỜNG CÁT, ĐƯỜNG RIM, ĐƯỜNG PHÈN

Nghe tin lệnh rút ra Hàn
Thiếp gửi cho chàng một cục đường rim
Một tiềm đường cát
Một bát thuốc khô
Một tờ giấy quyến
Một liễn trầu nguồn
Một buồng cau lửa
Một chục mực nang
Thiếp gửi cho chàng năm quan phí lộ
Một chục giạ đỗ
Bốn giạ mè đen
Một hũ đường phèn
Để chàng ăn cháo
Một ngày là đạo
Bốn nghĩa tình thâm
Chàng có ra đi đặng chữ sắt cầm
Chàng ơi cũng nhớ tình thâm nghĩa dày.

Đường rim, đường cát & đồ khô cũng là biểu tượng của sự rời rạc, lứa đôi xa cách, chia tay trong nhung nhớ, còn đường phèn ăn với cháo lại là biểu tượng của sự gắn kết, hai vợ chồng xa cách nhưng sẽ quyết tâm chung thuỷ và chờ đợi để gặp được nhau.

 

CÁT – VÀNG, VÔI, NGỌC

CÁT & VÔI

Bữa nay chở cát, bữa khác chở vôi,
Hai đứa mình gá nghĩa lôi thôi,
Chuyến này không được nhờ trời chuyến sau.

CÁT & NGỌC

Cát lầm ngọc trắng

CÁT & VÀNG

Cát bay vàng lại ra vàng
Những người quân tử dạ càng đinh ninh
Đinh ninh sắp để dạ này
Có công mài sắt, có ngày nên kim

—o—

Đãi cát tìm vàng

—o—

Kẻ khó được vàng, người sang cất lấy

CÁT – VẬN HÀNH

CÁT NÓNG

– Thương anh thì cũng muốn thương
Sợ truông cát nóng, sợ đường đá dăm
– Cát nóng anh cõng em đi
Đá dăm anh lặt, can gì em lo.

—o—

– Muốn về Mỹ Á ăn dừa
Sợ truông cát nóng, sợ đèo đá dăm
– Cát nóng, đưa dép anh mang
Đá dăm em lượm còn than nỗi gì!

—o—

CÁT VẬN

Gió xoay vần, cát vận bờ đê
Cha mẹ anh cậy mai tới nói, sao em còn chê anh nghèo.

—o—

CÁT ĐÙA

Dưới sông, sóng vận cát đùa
Lấy anh chẳng đặng, em vô chùa em tu

—o—

Dưới sông, sóng vận cát đùa
Gá duyên không đặng vô chùa mà tu
Kiếm nơi nước vận, cát đùa
Gá duyên không đặng, vô chùa em tu
—o—
CÁT BAY
Cát bay vàng lại ra vàng
Những người quân tử dạ càng đinh ninh
Đinh ninh sắp để dạ này
Có công mài sắt, có ngày nên kim
—o—
Đường dài ngựa chạy cát bay
Ngãi nhân thăm thẳm mỗi ngày một xa
—o—
Giời làm sóng lở cát bay
Cho tớ bỏ thày cho mẹ bỏ con
Cửa nhà trôi mất chẳng còn
Vợ chồng cõng bế đàn con lên chùa
Năm nay nạn nước ơn vua
Quan trên phát chẩn ở chùa Tây Phương
Giời làm một trận lỡ đường
Cho nên mới biết Tây Phương thế này
Giời làm sóng lở cát bay
Quan trên phát chẩn mỗi ngày hai ca
Đàn ông cho chí đàn bà
Rạng ngày hăm tám đi ra mà về
Quan tuần, quan án ngồi nghĩ cũng ghê
Thuê ngay hai chiếc thuyền về đình chung
Giàu cùng, khó lại chẳng cùng
Ai ơi còn cậy anh hùng làm chi
Sinh ra nước lụt làm gì
Giàu thì bán ruộng, khó thì bán con
Nghèo thì bán cả nồi cấn lẫn lon đựng cà
Có thì bán cửa bán nhà
Nghèo bán đứa bé lấy ba bẩy hào
—o—
XE CÁT

Con còng dại lắm ai ơi
Uổng công xe cát sóng dồi lại tan

—o—

BỤM CÁT
Hai tay bụm cát đắp mồ
Tay bồng con dại, nước mắt hồ láng lai
—o—
ĐÃI CÁT
Trông anh chẳng thấy anh ra
Em ngồi đãi cát sương sa lạnh lùng
Những mong hai bóng chung cùng
Đâu hay sóng cuốn muôn trùng biển khơi
—o—
Đãi cát tìm vàng
—o—

HOÁ CÁT

Dù cho cạn nước Thu Bồn
Hải Vân hóa cát, biển Đông thành đèo
Dù cho cay đắng trăm điều
Cũng không lay được tình keo nghĩa dày

—o—

HẾT CÁT
Bao giờ hết cát Mỹ Hoà
Sông Gianh hết nước, La Hà hết quan.
—o—
NỔI CÁT
Bao giờ biển nổi cát vàng,
Thì miền Nam hạ chật đường ngựa xe

—o—

QUẤN CÁT

Nước còn quấn cát làm doi
Thương nhau ta phải tài bồi cho nhau
Tay cầm dĩa muối sàng rau
Thủy chung thứ nhứt sang giàu mặc ai

—o—

DÍNH CÁT

Lạc lò cò
Mò cuốc cuốc
Cò chân trước
Cuốc chân vàng
Sang đây chơi
Ngồi đây hát
Mỏ dính cát
Thì xuống sông
Bùn dính lông
Thì đi rửa
Chân giẫm lúa
Thì phải treo
Cù kheo à ập.

—o—

CÁT BỒI 

Ai sinh ra bãi cát bồi
Để em lo thuyền cạn cho người kém xinh

—o—

CÁT TÁNG

Hai tay bụm cát đắp mồ
Tay bồng con dại, nước mắt hồ láng lai
—o—
Bãi dài cát nhỏ cát to
Thác đi thì mất sống lo kết nguyền
—o—
Chàng khoe chàng lắm văn chương
Đố chàng biết cỏ bên đường bấy nhiêu
– Em về đếm cát bình hương
Bình hương bao nhiêu cát thì cỏ bên đường bấy nhiêu
—o—

CÁT LẦM

Hoa sen mọc bãi cát lầm
Tuy rằng lấm láp vẫn mầm hoa sen
Thài lài mọc ở ven sông
Tuy rằng giống tốt vẫn tông thài lài

—o—

ĐẾM CÁT

ĐẾM CÁT BỜ SÔNG

Thấy anh ra vẻ học trò
Lại đây em hỏi con cò mấy lông?
– Em về đếm cát bờ sông
Đếm coi mấy hạt anh nói lông con cò

—o—

ĐẾM CÁT BÌNH HƯƠNG

Chàng khoe chàng lắm văn chương
Đố chàng biết cỏ bên đường bấy nhiêu
– Em về đếm cát bình hương
Bình hương bao nhiêu cát thì cỏ bên đường bấy nhiêu

ÔNG ĐẾM CÁT

Nhất Ông đếm cát
Nhì Ông tát bể
Ba Ông kể sao
Bốn Ông đào sông
Năm Ông xây rú
Bảy Ông trụ trời

—o—

Ông đếm cát
Ông tát bể
Ông kể sao
Ông đào sông
Ông xây rú
Ông trụ trời

—o—

CÁT – THÂN PHẬN CON NGƯỜI

HỘT CÁT NẰM NGHIÊNG 
Ngó lên trời, mưa sa lác đác
Ngó xuống đất, hột cát nằm nghiêng
Rượu Ba Xuyên rót đãi người hiền
Trước là đãi bạn, sau giải phiền cho anh.
—o—
Mưa sa lác đác
Hột cát nhỏ nằm nghiêng
Lữ Phụng Tiên ép chế Điêu Thuyền
Kiếp này không đặng thề nguyền kiếp sau
—o—

CÁT – NHÂN VẬT

THẰNG CÁT

Vua khen thằng Cát nó tài
Ban cho cái khố với hai đồng tiền

GIA CÁT

Lấy chồng ghiền bằng ông tiên nho nhỏ
Trông vào ngọn đèn sáng tỏ hơn sao
Tay cầm tăm như Triệu Tử múa đao
Thân vắt vẻo như Khổng Minh xem sách
Tay luyện sái như Cao Biền luyện thạch
Hơn thở ra như Gia Cát cầu phong
Hết thuốc chạy rong như Tào Tháo bại trận Xích Bích!

—o—

Ba ông thợ da bằng ông Gia Cát

—o—

Đông Ngô, Gia Cát đánh lộn nhau
Đông Ngô thua, bỏ chạy về Tàu
Còn Gia Cát ở lại đánh trận sau

Là việc gì?

Trên thời Gia Cát cầu phong
Dưới thời lập trận hỏa công đánh Tào
Hai bên tả hữu xông vào
Đánh cho Tào chạy ngã nhào xuống sông.

Là gì?

 

CÁT TRONG TÊN ĐỊA DANH

ĐỒNG CÁT

Đồng Cát Tên chợ trung tâm của huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.

Kể từ sông Vệ, chợ Gò
Ngó vô Thi Phổ thấy đò Dắt Dây
Đồng Cát buôn bán sum vầy
Ngó vô Lò Thổi thấy cây xùm xòa
Tú Sơn một đỗi xa xa
Ngó vô Quán Sạn bạn hàng đà nghỉ ngơi
Chợ Huyện là chỗ ăn chơi
Trong tê Quán Vịt là nơi hữu tình
Trà Câu sao vắng bạn mình
Hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng.

—o—

Chim mía Xuân Phổ
Cá bống sông Trà
Kẹo gương Thu Xà
Mạch nha Đồng Cát

CÁT NGẠN

Ông hàng vịt
Ăn ít địt nhiều
Địt vô niêu, niêu thủng
Địt vô thúng, thúng bay
Địt vô chày, chày gãy cổ
Địt vô đám giỗ, bể đọi bể bát
Địt vô nhà hát, chết con nhà trò
Địt vô đàn bò, đẻ con me cái
Địt vô con gái, có nghén có thai
Địt vô con trai, hay mần hay mạn
Địt vô Cát Ngạn, cháy cửa cháy nhà
Địt vô làng ta, giàu sang phú quý.

—o—

Khoai La Mạc,
Bạc Cao Điền,
Tiền Hạnh Lâm,
Mâm Văn Chấn,
Mấn Cát Ngạn

—o—

Em là con gái Đô Lương
Anh trai Cát Ngạn chung đường bán mua
Lỗ lời khi được khi thua
Ngọt bùi nỏ thiếu, chanh chua ai bằng

GÒ CÁT

Sớm mai đi chợ Gò Cát
Cây cao bóng mát, cát nhỏ dễ đi
Gái như em, mặt tròn như bông hoa lý
Trai như anh, thấm ý vừa lòng
Em với anh thương thiệt, sao ông tơ hồng không xe?
Chợ Gò Cát nay ở xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Tại đây có gạo Gò Cát nổi tiếng thơm, dẻo, là nguyên liệu làm nên đặc sản hủ tiếu Mỹ Tho.

CÁT LẠI

 

 
Chia sẻ:
Scroll to Top