GƯƠNG ĐỒNG

Loading

Trong các loại gương, gương quý nhất và phổ biến nhất trong suốt lịch sử nhân loại là gương đồng. Gương đồng được sử dụng từ thời đại đồ đồng (cách đây 3000-4000 năm) cho đến tận thời kỳ thực dân, khi gương đồng được thay thế bằng gương thuỷ tinh tráng thiếc (trước kia là tráng bạc).
Gương đồng được tìm thấy trong bộ vật dụng cá nhân, trong lăng mộ như đồ tuỳ táng và trong tranh vẽ các vị thần.
Gương đồng cổ trong các bộ sưu tập hay ở các bảo tàng hiện nay thường có hai mặt :
– mặt sau được gò các hoa tiết rất đẹp, có thể có núm để cầm hay treo
– mặt trước để phẳng để soi gương.
Mặt gương soi lại có hai kiểu dáng
– Mặt phẳng (thường là gương to)
– Mặt cầu lồi (loại gương nhỏ phải làm lồi mới phản chiếu được hết gương mặt)
Điều kỳ lạ là gương rất mỏng nhưng vẫn có thể làm gò một mặt và để phẳng một mặt, chứng tỏ công nghệ làm gương rất cao. Một số gương khi soi gương trước có thể thấy được hoa văn mặt sau.
Theo cấu trúc cầm nắm có các loại gương sau
– Gương đồng có chân để đứng
– Gương đồng có cán để cầm tay
– Gương đồng có núm để cầm và treo
Châu Âu có gương hình vuông gập được, mô tả trong các tranh vẽ các vị thần, nhưng châu Á, gương cơ bản là hình tròn.
Gương đồng trước hết là gương soi cá nhân, đi cặp đôi với lược cá nhân. Có nhiều loại gương đồng cá nhân mà hiện giờ được sưu tập như đồ cổ hoặc đồ tuỳ táng. Gương đồng được chôn cùng với chủ nhân, khi chủ nhân của lược mất trở thành đồ tuỳ táng. Gương đồng tuỳ táng có thể được đập thành 2, 3, 4 phần, với mục đích bảo vệ người đã khuất, bởi vì khi gương đồng khi bị đánh cắp hay yểm thì sẽ ảnh hưởng đến chủ nhân, kể cả khi chủ nhân đã mất.
Gương đồng còn là một loại minh khí, có khả năng soi ra những thứ đặc biệt, vượt ra ngoài khuôn mặt của chủ nhân, như
– Gương bùa hộ mệnh, khi gương mờ đi hay có bất thường là mệnh số đang chuyển hay gặp vận hạn
– Gương soi tương lai
– Gương soi bệnh tật
– Gương phát quang
– Gương khai quang
– Gương truyền âm
– Gương chiếu yêu
– Gương bát quái
– Gương chuẩn đề – Kính đàn
– Gương ở đình, đền, miếu … để làm lễ
Gương đồng được gọi là gương tư mã với
– tư là cá nhân,
– mã là để dáng vẻ bề ngoài và mã cũng là một địa chi đại diện cho khả năng đi giữa thế giới vật chất và thế giới tinh thần, thế giới dương và thế giới âm
Về mặt vận hành gương đồng có thể đồng thời có 2 trạng thái đối lâp
– Vừa là vật dụng cá nhân, vừa là minh khí của cặp đôi hay của cộng đồng
– Vừa mờ vừa tỏ, mở khi cần mờ và với vấn đề không thể tỏ
– Vừa vỡ vừa lành, vỡ là để chia cắt và lành là để hàn gắn và hợp nhất
– Vừa soi được gương mặt chủ nhân như gương bình thường, vừa soi được quá khứ tương lai và những vấn đề của thế giới khác
HUYỀN SỬ GƯƠNG ĐỒNG
Gương đồng nổi tiếng nhất trong huyền sử là gương của nàng Vệ nữ. Có các bức tranh mô tả thần Cupid, con của thần Venus, cầm gương cho mẹ soi. Gương của thần Venus là gương đồng.
– Gương đồng là biểu tượng của sao Kim
– Gương đồng là biểu tượng của nguyên tố đồng trong thuật giả kim.
– Gương đồng là biểu tượng của giới tính nữ được dùng hiện nay.
Biểu tượng nổi tiếng của văn minh Ai Cập cổ đại Ankh hay chìa khóa sự sống’ (key of life) cũng là một cái gương cầm tay rất giống gương đồng Venus, nhưng sinh khí có thể đi qua vòng tròn là măt gương trong biểu tượng của Venus.
GƯƠNG ĐỒNG & TRỐNG ĐỒNG
Trống đồng từ lâu được coi như biểu tượng của các bộ lạc Việt thời đại Hùng Vương, nhưng gương đồng thường được coi là đồ Hán.
Thực tế gương đồng có cùng niên đại như trống đồng và là một bộ âm dương với trống đồng
– Gương đồng là đồ cá nhân, thường gắn với người nữ và cuốc sống gia đình, để soi hình hoặc soi những vấn đề tinh thần qua hình. Gương đồng có khả năng soi tỏ nhưng điều ẩn chứa riêng cho chủ nhân của gương
– Trống đồng là đồ của cộng đồng, được sử dụng bởi người nam lãnh đạo như tù trưởng, thày mo, lạc hầu, lạc tướng trong các lễ hội hay sự kiện cộng đồng. Trống đồng tạo ra sự kết nối và thống nhất của cả cộng đồng
GƯƠNG ĐỒNG & GƯƠNG VÀNG, GƯƠNG BẠC
Gương đồng là biểu tượng của sao Kim, các cung sao Kim và cung trăng, đi cặp với Mặt trời đen, Vulcan, trong khi gương thuỷ tinh tráng bạc (hay tráng thuỷ) còn được gọi là gương trăng, gương bạc, là biểu tượng của Mặt trăng đối xứng với mặt trời vàng Sun.
Gương thuỷ tinh liên quan đến gương cát và gương nước, cát là vật liệu để chế tạo thuỷ tinh và thường nằm ở đáy nước (mặt nước là gương nước). Khi các hạt cát nóng chảy ở nhiệt độ cao thống nhất thành thuỷ tinh hoặc đá thuỷ tinh nếu đây là quá trình tự nhiên. Nhưng khi các hạt cát rời rạc thì mỗi hạt cát là một hạt sạn, một sự kiện tạo nên sự rạn nứt. Sự hàn gắn chỉ diễn ra nếu đôi bên có sự chấp nhận lẫn nhau, tôn trọng nhau … tạo nên trạng thái thuỷ tinh. Gương thuỷ tinh có thể bị bong tróc lớp tráng bạc tạo nên trạng thái mờ và gương thuỷ tinh dễ vỡ so với gương đồng.
Gương không có thủy gương mờ
Thuyền không có lái lửng lơ giữa dòng
Mong sao nghĩa thủy tình chung
Cho thuyền cập bến, gương trong ngàn đời
Tráng thủy : Để chế tạo gương soi, trước đây người ta thường tráng một lớp bạc lên mặt sau của một tấm thủy tinh trong suốt. Quá trình tráng bạc này sử dụng hóa chất ở dạng lỏng nên được gọi là tráng thủy, lớp bạc sau khi hình thành được gọi là lớp tráng thủy, hay là lớp thủy. Sau này người ta tráng thiếc.
Hồi mô gương tỏ không soi
Bây giờ tróc thủy bạn lại đòi soi gương
Gương vàng có thể được làm bằng vàng, nhưng hầu như vàng không được coi là vật liệu lý tưởng để làm gương vì nó vừa đắt, vừa không sáng tỏ như gương đồng. Gương vàng thường được dùng với nghĩa tinh thần, đại diện cho sự bền vững và quý giá.
Đêm nằm nghĩ lại mà coi
Lấy chồng hay chữ như soi gương vàng
Bấy lâu vắng thiếp xa chàng
Chậu thau ai rửa gương vàng ai soi
Em lên lưng voi em hỏi cái đường vạn tượng
Tay em lại dắt dê hỏi chốn lan dương
Đố anh mà đối đặng em cho soi gương vàng.
– Dây bí ngô trèo trên cây trụ tàu
Cờ thượng mã phất sau đuôi ngựa
Anh đối đặng rồi lật ngửa gương ra.
Chia sẻ:
Scroll to Top