CA DAO, TỤC NGỮ VỀ RẰM THÁNG GIÊNG
Cúng bái quanh năm không bằng ngày rằm tháng Giêng
—o—
Cả năm một rằm tháng Bảy
Cả thảy một rằm tháng Giêng
Rằm tháng Giêng là tết Nguyên Tiêu.
—o—
Chém tre đan nón ba tầm
Để cho chị đội qua rằm tháng giêng
Tình nhân ghé nón đi qua
Đôi hàng nước mắt nhỏ ra ròng ròng
Thà rằng chẳng biết cho xong.
—o—
Cái nón ba tầm, cái nón ba tầm
Quai thao mỏ vịt, bịt bạc là nón ba tầm
Anh cho em đội qua rằm tháng giêng
Nón quai thao còn gọi là nón ba tầm, nón thúng là một loại nón xưa của phụ nữ đồng bằng Bắc Bộ. Nón làm bằng lá gồi hoặc lá cọ, mặt nón rộng 70 – 80 cm, hình bánh xe, đỉnh bằng, có vành cao độ 10 – 12 cm. Mặt dưới nón gắn một vành tròn vừa đầu người đội, gọi là khua. Quai nón dài, khi đội thì thả võng đến thắt lưng, người đội dùng tay giữ quai. Quai nón làm bằng từ một 1 tới 8 dây thao đen kết bằng tơ, chỉ, ngoài bọc tơ dệt liên tục. Đời nhà Trần, nón này được cải tiến cho cung nữ đội và gọi là nón thượng
—o—o—o—
CA DAO, TỤC NGỮ VỀ CÁC MÙNG, CÁC MỒNG CỦA THÁNG GIÊNG
Ai về thăm lại Trà Ôn
Tháng giêng mùng bốn giỗ ông Ngọc Hầu
—o—
Ai về Đồng Tháp mà coi
Mộ ông Thiên Hộ trăng soi lạnh lùng
Bà con đùm đậu quanh vùng
Tháng giêng ngày giỗ xin đừng ai quên
—o—
– Bạn hẹn với ta mùng bốn tháng giêng
Trông hoài không thấy bạn hiền vãng lai
Bạn hẹn với ta mùng bốn tháng hai
Tiết xuân con én đưa thoi đã rồi
Tháng ba, tháng tư ta không thấy bạn thời thôi
Chim kêu thỏ thẻ trước nơi sân hòe
Tháng năm, tháng sáu ta chẳng thấy nhắn nhe
Chim kêu nhỏ nhẻ, mùa hè sang thu
Chim kêu, vượn hú, cu gù
Cây khô lá rụng, mịt mù tang thương
Tháng bảy, tháng tám, tháng chín mưa trường
Đến khi ta nhắn gửi, hết lời ta lại qua
Tháng mười, tháng mười một, nước chảy mưa sa
Đương khi tiết lạnh bạn với ta xa vời
Còn mình tháng chạp bạn ơi
Niên tàn nguyệt tận, bạn phải tính cho rồi mưu chi?
Về nhà ngửa bàn tay tính lại đính đi
Tháng thời mười hai tháng, mùa y bốn mùa
Chuỗi sầu ai khéo thêu thùa
Đớn đau dạ ngọc, xót chua gan vàng!
– Bớ em ơi, một năm mười hai tháng, một tháng ba mươi ngày
Mắc lo canh cửi, hết ngày tháng giêng
Tháng hai khoai sắn liên thiên
Ta cam tâm nhớ bạn, còn phiền về tháng ba
Tháng ba anh mắc dọn dẹp việc nhà
Lo gặt lo hái nên không qua thăm nường
Tháng tư mắc lo việc lí hương
Mắc lo tạ tế, chay trường, công ngân
Tháng năm anh lo việc trăm phần
Lo sạ, lo cấy, gánh phân, đi cày
Tháng sáu anh nghĩ đã thậm gay
Mắc lo dựng xe đạp nước, không ngày nào ở không
Tháng bảy thiên não địa nùng
Ngày cơ tháng thiết, anh sợ em bậu có chồng chứ phải chơi!
Tháng tám ngó bộ thảnh thơi
Cha mẹ nhà trói buộc không cho anh đi, anh phiền
Tháng chín nước chảy khỏa biên
Mưa to gió lớn, anh sợ chiếc thuyền không bơi
Tháng mười chân rảnh tay rời
Đêm nằm nhớ bạn, ngày thời trông mong
Tháng mười một hết ngõ hết đường
Anh đau liệt giường, ới hỡi thuyền quyên!
Tháng chạp ngày tổ ngày tiên
Mắc lo dẫy mả tổ tiên cho rồi
Một năm mười hai tháng, em bậu ơi
Mong có ngày rảnh, để em bậu ngồi trách qua!
—o—
Chết thì bỏ con bỏ cháu
Sống thì không bỏ mồng sáu tháng giêng
—o—o—o—
CA DAO, TỤC NGỮ VỀ RA GIÊNG, QUA GIÊNG, NGOÀI THÁNG GIÊNG
Qua giêng hết năm
Qua rằm hết tháng
—o—
Đôi ta chẳng mốt thì mai
Chẳng trong tháng chạp thì ngoài tháng giêng.
—o—
Chiều chiều ra đứng bờ sông
Hỏi thăm chú lái: Nào chồng em đâu?
– Chồng em đang ở Khuê Cầu
Đánh thua quay đất những đầu tháng giêng
Cầm khăn, bán áo cổ kiềng
Bán nón quai lụa, bán chiêng, cố nồi
Bây giờ túng lắm em ơi
Có tiền riêng giấu mẹ mà nuôi lấy chồng!
—o—o—o—
CA DAO, TỤC NGỮ VỀ THÁNG GIÊNG
Tháng giêng khô hạn, bàu cạn sen tàn
Đêm khuya trải lá gan vàng
Trông mau tới sáng ra đàng gặp em
—o—
Tháng giêng là tiết mưa xuân
Đẹp người thục nữ thanh tân má hồng
Muốn cho đây đấy vợ chồng
Hay còn quyết chí một lòng chờ ai?
—o—
Mong sao đã đến tháng Giêng
Kiếm một gánh cá vào Chiêng ngược đò
Không đi nay hẹn mai hò
Đi thì lỗ mãi tiền đò, anh ơi!
—o—
Đất tháng Giêng tự nhiên cây cỏ mọc
Bởi mang chữ nghèo con bạn ngọc mới thôi
—o—
Khi nào trâu đực sinh con
Gà trống đẻ trứng, trăng tròn ba mươi
Khi nào tháng chạp ăn rươi
Tháng giêng gặt lúa em thời lấy anh.
—o—
Bao giờ cho đến giêng, hai,
Cho làng vào đám cho ai xem chèo
—o—
Tháng giêng nắng lắm
Nước biển mặn mòi
Vác mai đi xoi
Là bông hoa giếng
Hay bay hay liệng
Là hoa chim chim
Xuống biển mà chìm
Là bông hoa đá
Bầu bạn cùng cá
Là đá san hô
Hỏi Hán qua Hồ
Là bông hoa sứ
Gìn lòng nắm giữ
Là hoa từ bi
Ăn ở theo thì
Là hoa bầu ngọt
Thương ai chua xót
Là hoa sầu đâu
Có sông không cầu
Là hoa nàng cách
Đi mà đụng vách
Là hoa mù u
Cạo đầu đi tu
Là hoa bông bụt
Khói lên nghi ngút
Là hoa hắc hương
Nước chảy dầm đường
Là hoa mùi tưới
Rủ nhau đi cưới
Là hoa bông dâu
Nước chảy rạch sâu
Là hoa muống biển
Rủ nhau đi kiện
Là hoa mít nài
Gái mà theo trai
Là hoa phát nhũ
Đêm nằm không ngủ
Là hoa nói ngày
Bạn chẳng lìa cây
Là bông hoa cúc
Nhập giang tuỳ khúc
Là bông hoa chìu
Ở mà lo nghèo
Là hoa đu đủ
Đi theo cậu Thủ
Là hoa mồng quân
Đánh bạc cố quần
Là bông hoa ngổ
Ngồi mà choán chỗ
Là hoa dành dành
Giận chẳng đua tranh
Là bông hoa ngải
Bắt đi tha lại
Là hoa phù dung
Ăn ở theo luồng
Là bông hoa thị
Theo mẹ bán bí
Là hoa thanh hao
—o—o—o—
CA DAO, TỤC NGỮ VỀ THÁNG GIÊNG & THÁNG HAI, BA, BỐN
Tháng giêng, tháng hai, anh đi cờ bạc
Em ở nhà dọn mâm cơm lộng lạc
Anh về, anh quát nạt chửi thề
—o—
Tháng giêng rét đài,
Tháng hai rét lộc,
Tháng ba rét nàng Bân
—o—
Tiếng đồn các lái Đồng Nai
Tháng giêng cưa ván, tháng hai đóng thuyền
Tháng ba củi lửa huyên thuyên
Tháng tư dọn thuyền quay lại lộn ra
—o—
Tháng Giêng, tháng Hai, tháng Ba, tháng Bốn, tháng khốn, tháng nạn
Đi vay đi dạm được một quan tiền
Ra chợ Kẻ Diên
Mua một vác tre
Về che cái quán
Ai thù ai oán
Đốt quán tôi đi
Tôi thương cái cột
Tôi nhớ cái kèo
Tôi thương cái cửa
Bạn nghèo gặp nhau…
—o—o—o—
CA DAO, TỤC NGỮ VỀ THÁNG GIÊNG & THÁNG TƯ, NĂM, SÁU
Vùng quê Cà Đó (Quảng Ngãi) nổi tiếng nhờ nghề trồng thuốc lá. Thuốc lá Cà Đó ngon nhờ một kinh nghiệm gieo trồng độc đáo: bón cây bằng phân người. Từ đó sản sinh ra nghề nhặt phân để bón cho cây thuốc lá, và có hẳn một câu ca dao về nghề này.
Tháng giêng trồng củ từ
Tháng tư trồng củ lỗ
—o—
Tháng giêng trồng trúc
Tháng lục trồng tiêu
—o—o—o—
CA DAO, TỤC NGỮ VỀ THÁNG GIÊNG & THÁNG TÁM, CHÍN, MƯỜI
Quan viên tháng giêng
Tuần phiên tháng mười
—o—
Trăm hoa đua nở tháng giêng
Có bông hoa cải nở riêng tháng mười
—o—
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Anh ra nằm bãi hòn Khơi một mình
—o—
Ếch tháng mười, người tháng giêng
—o—
Tháng giêng chân bước đi cày
Tháng hai vãi lúa ngày ngày siêng năng
Thuận mưa lúa tốt đằng đằng
Tháng mười gặt lúa ta ăn đầy nhà.
—o—
Buổi tháng giêng tháng hai anh còn ham Tam, Túc, Yêu, Lượng
Bước qua tháng chín tháng mười thì anh còn Mã, Tượng, Pháo, Xe
Em nói với anh, anh chẳng thèm nghe
Để chừ tay em ôm nón gạo, tay mót nạm củi nè, thảm chưa?
—o—
—o—o—o—
CA DAO, TỤC NGỮ VỀ THÁNG GIÊNG & CÁC THÁNG
Khó thay công việc nhà quê
Quanh năm khó nhọc dám hề khoan thai
Tháng chạp thì mắc trồng khoai
Tháng giêng trồng đậu tháng hai trồng cà
Tháng ba cày vỡ ruộng ra
Tháng tư bắc mạ thuận hòa mọi nơi
Tháng năm gặt hái vừa rồi
Bước sang tháng sáu lúa trôi đầy đồng
Nhà nhà vợ vợ chồng chồng
Đi làm ngoài đồng sá kể sớm trưa
Tháng sáu tháng bảy khi vừa
Vun trồng giống lúa bỏ chừa cỏ tranh
Tháng tám lúa giỗ đã đành
Tháng mười cắt hái cho nhanh kịp người
Khó khăn làm mấy tháng trời
Lại còn mưa nắng thất thời khổ trông
Cắt rồi nộp thuế nhà công
Từ rày mới được yên lòng ấm no.
—o—
Mình rằng mình quyết lấy ta
Ðể ta hẹn cưới hăm ba tháng này
Hăm ba nay đã đến ngày
Ta hẹn mình rày cho đến tháng giêng
Tháng giêng năm mới chưa nên
Ta hẹn mình liền cho đến tháng hai
Tháng hai có đỗ có khoai
Ta lại vật nài cho đến tháng tư
Tháng tư ngày chẵn tháng dư
Ta lại chần chừ cho đến tháng năm
Tháng năm là tháng trâu đầm
Ta hẹn mình rằng tháng sáu mình lên
Tháng sáu lo chửa kịp tiền
Bước sang tháng bảy lại liền mưa ngâu
Tháng bảy là tháng mưa ngâu
Bước sang tháng tám lại đầu trăng thu
Tháng tám là tháng trăng thu
Bước sang tháng chín mù mù mưa rươi
Tháng chín là tháng mưa rươi
Bước sang tháng mười đã đãi mưa đông
Quanh đi quẩn lại em đã có chồng
Như chim trong lồng, như cá cắn câu
—o—
Tháng Giêng, tháng Hai, tháng Ba, tháng Bốn, tháng khốn, tháng nạn
Đi vay đi dạm được một quan tiền
Ra chợ Kẻ Diên mua con gà mái về nuôi, hắn đẻ ra mười trứng
Một trứng: ung
Hai trứng: ung
Ba trứng: ung
Bốn trứng: ung
Năm trứng: ung
Sáu trứng: ung
Bảy trứng: ung
Còn ba trứng nở ra ba con
Con diều tha
Con quạ bắt
Con cắt xơi
Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây.
—o—
Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè
Tháng tư đong đậu nấu chè
Ăn tết Đoan Ngọ trở về tháng năm
Tháng sáu buôn nhãn bán trâm
Tháng bảy ngày rằm, xá tội vong nhân
Tháng tám chơi đèn kéo quân
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng
Tháng mười buôn thóc, bán bông
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành.
—o—
Tháng giêng xuân tuyết mau mưa
Nhớ chàng những lúc sớm trưa vui cười
Tháng hai hoa đã nở rồi
Nhớ chàng em phải đứng ngồi thở than
Tháng ba nắng lửa mưa dầu
Nhớ chàng em những âu sầu chả tươi
Tháng tư sấm giục mưa rơi
Nhớ chàng thơ thẩn ra chơi vườn cà
Tháng năm gặt hái rồi rà
Nhớ chàng như thể nhớ hoa trên cành
…
—o—
Tháng giêng lúa mới chia vè
Tháng tư lúa đã đỏ hoe đầy đồng
Chị em đi sắp gánh gồng
Đòn càn tay hái ta cùng ra đi
Khó nghèo cấy mướn gặt thuê
Lấy công đổi của chớ hề lụy ai
Tháng hai cho chí tháng mười
Năm mười hai tháng em ngồi em suy
Vụ chiêm em cấy lúa đi
Vụ mùa lúa ré, sớm thì ba giăng
Thú quê rau cá đã từng
Gạo thơm cơm trắng chi bằng tám xoan
Việc nhà em liệu lo toan
Khuyên chàng học tập cho ngoan kẻo mà
Tháng sáu em cấy anh bừa
Tháng mười em gặt anh đưa cơm chiều
—o—
Tháng giêng là gió hây hây
Tháng hai gió mát, trăng bay vào đền
Tháng ba gió đưa nước lên
Tháng tư gió đánh cho mềm ngọn cây
Tháng năm là tiết gió tây
Tháng sáu gió mát cấy cày tính sao
Tháng bảy gió lọt song đào
Tháng tám là tháng tạt vào hôm mai
Tháng chín là tháng gió ngoài
Tháng mười là tháng heo may rải đồng
Tháng một gió về mùa đông
Tháng chạp gió lạnh gió lùng, chàng ơi
Mười hai tháng gió tôi đã họa rồi
Mưa đâu, chàng họa một bài cùng nghe!
—o—
Tháng giêng là nắng hơi hơi
Tháng hai là nắng giữa trời nắng ra
Thứ nhất là nắng tháng ba
Tháng tư có nắng nhưng mà nắng non
Tháng năm nắng đẹp nắng giòn
Tháng sáu có nắng bóng tròn về trưa
Tháng bảy là nắng vừa vừa
Tháng tám là nắng tờ ơ thế này
Tháng chín nắng gắt nắng gay
Tháng mười có nắng, nhưng ngày nắng không
Tháng một là nắng mùa đông
Tháng chạp có nắng nhưng không có gì
—o—
Tháng giêng thì nắng hơi hơi
Tháng hai thì nắng tuyết giời nắng ra
Tháng ba được trận nắng già
Tháng tư có nắng nhưng mà nắng non
Tháng năm nắng đẹp nắng ròn
Tháng sáu có nắng bóng tròn về trưa
Tháng bảy vừa nắng vừa mưa
Tháng tám còn nắng nhưng chưa ngắn ngày
Tháng chín nắng ớt, nắng cay
Tháng mười có nắng nhưng ngày ngắn hơn
—o—
Tháng giêng thì lúa xanh già
Tháng hai lúa trổ, tháng ba lúa vàng
Tháng tư cuốc đất trồng lang
Tháng năm cày cuốc tiếng nàng hò lơ
Tháng sáu làm cỏ dọn bờ
Tháng bảy trổ cờ, tháng tám chín thơm
Gặt về đạp lúa phơi rơm
Mồ hôi đổi lấy bát cơm hàng ngày
Lúa khô giê sạch cất ngay
Chỗ cao ta để phòng ngày nước dâng
Mùa đông mưa bão nhiều lần
Nàng xay, chàng giã cùng ngân tiếng hò
Tháng mười cày cấy mưa to
Trông trời, trông đất cầu cho được mùa
—o—
Buồn về một nỗi tháng Giêng
Con chim, cái cú nằm nghiêng thở dài
Buồn về một nỗi tháng Hai
Ðêm ngắn, ngày dài thua thiệt người ta
Buồn về một nỗi tháng Ba
Mưa rầu, nắng lửa người ta lừ đừ
Buồn về một nỗi tháng Tư
Con mắt lừ đừ cơm chẳng muốn ăn
Buồn về một nỗi tháng Năm
Chửa đặt mình nằm gà gáy, chim kêu.
Bước sang tháng Sáu lại đều
Thiên hạ cày cấy râm riu ngoài đồng.
—o—
Buồn về một tiết tháng giêng
May áo cổ kiềng người mặc cho ai
Buồn về một tiết tháng hai
Bông chửa ra đài người đã hái hoa
Buồn về một tiết tháng ba
Con mắt la đà trong dạ tương tư
Buồn về một tiết tháng tư
Con mắt lừ đừ cơm chả buồn ăn
Buồn về một tiết tháng năm
Chưa đặt mình nằm gà gáy chim kêu
Buồn về tiết tháng sáu này
Chồng cày vợ cấy chân chim đầy đồng
Bấy giờ công lại hoàn công
—o—
Buôn bấc rồi lại buôn dầu
Buôn nhiễu đội đầu, buôn nhẫn lồng tay
Sầu về một tiết tháng giêng
May áo cổ kiềng người mặc cho ai
Sầu về một tiết tháng hai
Bông chửa ra đài người đã hái hoa
Sầu về một tiết tháng ba
Mưa héo ruộng cà nắng cháy ruộng dưa
Sầu về một tiết tháng tư
Con mắt lừ đừ cơm chẳng buồn ăn
Sầu về một tiết tháng năm
Chưa đặt mình nằm gà gáy sang canh
—o—
Lác đác lộc cơi
Đôi dân nước nghĩa hồ vơi lại đầy
Tháng giêng năm nay, ngoài em mở tiệc
Cắt đôi mối việc vào mời trong anh
Dân anh ở xa, mời anh ra trước
Việc đồng cùng rước chỉ có đôi chân
Cắt bốn trai tân để vào chân kiệu
Ba hồi trống giục, kiệu cất lên vai
Chân đi hàng hai, chân rùm chân bước
Ba hồi trống trước, chân bước cho mau
Tâm tình anh trước em sau
—o—
Một năm chia mười hai kì
Em ngồi em tính khó gì chẳng ra
Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng hai rỗi rãi quay ra nuôi tằm
Tháng ba đi bán vải thâm
Tháng tư đi gặt, tháng năm trở về
Tháng sáu em đi buôn bè
Tháng bảy tháng tám trở về đong ngô
Chín, mười cắt rạ đồng mùa
Một, chạp vớ được anh đồ dài lưng
Anh ăn rồi anh lại nằm
Làm cho em phải quanh năm lo phiền
Chẳng thà lấy chú lực điền
Gạo bồ thóc đống còn phiền nỗi chi?
—o—
Lính anh là lính Đàng Trong
Anh dốc một lòng đi hỏi nàng kia
Tháng giêng anh mắc đi thề
Tháng hai đi dạo, trở về làm sao?
Tháng ba anh mắc khảo đao
Tháng tư tập súng, khi nao cho rồi
Tháng năm anh mắc kiệu voi
Tháng sáu anh mắc dọn chòi cầu Đông
Tháng bảy anh mắc thuyền rồng
Tháng tám anh mắc dọn trong công đường
Tháng chín anh mắc tải lương
Tháng mười anh mắc dọn đường vua ra
Tháng một mắc tuổi đôi ta
Tháng chạp mắc tuổi mẹ cha sinh thành
Nàng ơi nàng chớ trách anh!
—o—
Anh ơi! phải lính thì đi
Cửa nhà mọi việc em thì chẳng sai
Tháng chạp là tiết trồng khoai
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà
Tháng ba cày vỡ đất ra
Tháng tư gieo mạ, thuận hòa mọi nơi
Tháng mười gặt hái vừa rồi
Trời đổ mưa xuống, nước trôi đầy đồng
Anh ơi, hãy giữ việc công
Để em cày cấy, mặc lòng em lo