CHỢ BƯỞI & SÔNG TÔ LỊCH
Thuỵ Khê là một khu vực kỳ cổ kính của Hà Nôi, với các di tích từ thời Vua Hùng, nghĩa là hơn 1000 năm trước khi Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long, và đương nhiên là trước khi Thập Tam Trại ra đời. Khu vực này gắn với câu thơ
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”.
Đi trên đường Thuỵ Khê, có thể thấy những cổng làng cổ, đi vào bên trong lại có những cổng làng nữa. Theo một bài báo tôi đã đọc, thì Thuỵ Khê có đến 50 cái cổng làng. Người ta có câu “Qua đình ngả nón trông đình”, qua Thuỵ Khê, ở Thuỵ Khê, nghĩa là ngày ngày đi qua cổng làng, đi dưới cổng làng. Mỗi cái cổng ấy mang một cái tên riêng, mang một kiến trúc riêng, có một lịch sử riêng, với một tâm hồn riêng.
Thăng Long có Kẻ Chợ và Kẻ Bưởi. Cái gốc của Kẻ Bưởi và Kẻ Bưởi có trước khi hoàng thành Thăng Long được xây dựng. Khu vực chợ nhộn nhịp ấy thủa ban đầu gắn liền với bến thuyền của con sông Tô Lịch. Khi Thăng Long ra đời, Kẻ Chợ và Kẻ Bưởi là hai khu buôn bán sầm uất bậc nhất của Thăng Long.
Nếu như Kẻ Chợ có các sản phẩm chuyên môn hoá theo các tuyến của 36 phố phường mang tên “Hàng” thì chợ Bưởi chủ yếu bán hoa và cây cảnh cùng các sản phẩm làng nghề truyền thống. Kẻ Chợ thuộc nội thành Thăng Long, còn Kẻ Bưởi thuộc khu vực ngoại thành, và một đoạn thành cổ là ranh giới giữa hai thành ấy là con đường Hoàng Hoa Thám ngày nay.
Quanh chợ Bưởi là hai khu trồng cây nổi tiếng bậc nhất của Thăng Long. Đó là khu Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Khán Xuân và Đại Yên của Thập Tam Trại và vành đai hoa và cây quanh Hồ Tây, mà nổi tiếng nhất thời xưa là Nghi Tàm.
Chợ Bưởi ngày nay nằm ở cuối đường Thuỵ Khê và Hoàng Hoa Thám. Chợ Bưởi mở hàng ngày bán các thức ăn và các hàng hoá như bất kỳ khu chợ truyền thống nào của nước Việt. Riêng khu vực bán hoa và cây cảnh thì trải dài theo tuyến phố Hoàng Hoa Thám và đường Bưởi. Chợ Bưởi ngoài việc mở định kỳ còn có chợ phiên họp vào các ngày 4, 9, 14, 19, 24, 29 âm lịch. Tới ngày phiên, dân các khu vực lân cận lại kéo về chợ Bưởi bán cây, con giống, vật dụng nông nghiệp, sản vật làng nghề … Ở Hà Nội, còn họp phiên chỉ còn hai chợ cổ là chợ Mơ nằm phía nam và chợ Bưởi nằm phía bắc, nhưng chợ Mơ đã bị ảnh hưởng nhiều bởi việc mở đường.
Khu vực Chợ Bưởi luôn là một giao lộ quan trọng bậc nhất của Thăng Long xưa và Hà Nội nay.
Hiện này khu vực này là khởi đầu của các trục đường cực kỳ quan trọng mà xếp theo bốn hướng Đông – Tây – Nam – Bắc như sau
1. Đông
– Đường Thuỵ Khê chạy vòng theo bờ nam ở Hồ Tây, nối với đường Quán Thánh, đường Thanh Niên, đường Hùng Vương, đường Mai Văn Thưởng, đường Trấn Vũ, đường Nguyễn Đình Thi ở khu vực đền Quán Thánh.
– Đường Hoàng Hoa Thám/Phan Đình Phùng chạy song song với đường Thuỵ Khê/Quán Thánh, từ chợ Bưởi đến bốt Hàng Đậu, qua đường đê sông Hồng đến chân cầu Long Biên, sang quận Long Biên ở bên kia sông Hồng.
2. Tây :
– Đường Hoàng Quốc Việt chạy chính Tây đâm ra Phạm Văn Đồng
3. Bắc
– Đường Võ Chí Công xuất phát từ khu chợ Bưởi chạy thẳng đến chân cầu Nhật Tân, nối sang khu vực Đông Anh, bên kia sông Hồng
– Đường Lạc Long Quân chạy vòng theo bờ Tây của hồ Tây, đâm ra đường đê sông Hồng ở đoạn Âu Cơ, gần chân cầu Nhât Tân.
4. Nam
– Đường Bưởi rồi đến đường Láng chạy theo bờ nam sông Tô Lịch là ranh giới phía bắc của Thập Tam Trại. Đi thẳng tiếp đường Láng theo trục Trường Chinh/Đại La/Nguyễn Thị Minh Khai sẽ ra chân cầu Vĩnh Tuy
– Đường Nguyễn Đình Hoàn/Quan Hoa/ Nguyễn Khang chạy song song với đường Bưởi/đường Láng ở bờ bên kia của sông Tô Lịch.
===
NHÁNH SÔNG TÔ LỊCH BẮC
Khu vực chợ Bưởi ngày xưa là một ngã ba sông rất lớn gọi là cửa Giang Tân, nơi nối Tô Lịch với Thiên Phù,
– Sông Thiên Phù giờ đã mất. Sông Thiên Phù chảy theo hướng Bắc Nam, là hướng của đường Võ Chí Công và Lạc Long Quân hiện nay.
– Sông Tô Lịch tại Giang Tân bị chia làm đôi một nửa còn chảy lộ thiên theo đường Bưởi, nửa còn lại bị lấp mất hoặc chảy ngầm theo cống bê tông
Theo tấm bản đồ cổ so với địa giới ngày nay, thì dòng sông Thiên Phù khởi nguồn từ giữa hai Làng Phú Xá và Nhật Tân, chảy theo hướng Bắc Nam, qua cánh đồng Xuân Đỉnh, đến cánh đồng Xuân La thì chia hai nhánh
– một nhánh chảy về phía tây qua Cổ Nhuế hòa dòng với sông Nhuệ
– một nhánh chảy xuống phía nam, qua Bái Ân đến vùng Nghĩa Đô – Yên Thái thì nối với sông Tô Lịch ở khu vực đình Yên Thái, hay An Thái của làng An Thái xưa, nay nằm ở cuối đường Thuỵ Khê.
Sông Tô Lịch chảy vòng quanh Thăng Long xưa, với Giang Tân là điểm cực Bắc mà tại đây sông chảy theo hướng Đông – Tây.
Từ cửa sông nối với Nhị Hà đổ vào khu Kẻ Chợ thì sông Tô lịch xưa có các đoạn sau
1. Giang Khẩu (cửa sông Tô Lịch)
Cửa sông Tô Lịch nối với Nhị Hà nằm ở khu chợ Gạo giữa các đền mang tên “Hương” mà trước kia ngày lễ hội đều rước về đền Bạch Mã, trấn Đông Thăng Long thờ thần Long Đỗ hay còn được biết đến là thần Tô Lịch (nay ở Hàng Buồm)
– Đền Hương Nghĩa ở 13 Đào Duy Từ (góc Hàng Buồm, chợ Gaọ, Đào Duy Từ). Đền Hương Nghĩa ngày xưa rộng mênh mông mà bây giờ chỉ còn một gian nằm giữa nhà dân. Đền thờ thần Cao Tứ, một anh hùng truyền thuyết từ thời Thục Phán An Dương Vương và một người em. Ở đền có mộ gió của thần Cao Tứ.
– Đền Hương Bài ở 90 phố Trần Nhật Duật, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm Hà Nội. Xưa kia, đây là thôn Hương Bài (thôn Hương Bài sáp nhập với thôn Kiên Nghĩa thành thôn Hương Nghĩa) thuộc tổng Tả Túc, sau này là tổng Phúc Lâm. Đền thờ Nguyễn Trung Ngạn.
– Đền Hương Tượng xưa thuộc phường Giang Khẩu (Hà Khẩu), tổng Hữu Túc (Đông Thọ), huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, ngày nay là số 64 phố Mã Mây, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đền thờ Nguyễn Trung Ngạn.
Từ chợ Gạo, sông Tô Lịch chảy vuông góc với sông Hồng vào phố cổ, theo phố Nguyễn Siêu rồi đến Ngõ Gạch là đến khu vực đền Bạch Mã
– Chợ Gạo : Bộ đền mang tên Hương ở góc Hàng Buồm, chợ Gaọ, Đào Duy Từ cùng với các đền khác trong khu vực thờ thần Cao Tứ và Nguyễn Trung Ngạn
– Nguyễn Siêu :
– – – Đền Cổ Lượng, 28 Nguyễn Siêu thờ hai vị nam thần Phổ Tế và Nam Hải. Thời Nguyễn, rước thêm Thánh Mẫu Liễu Hạnh về thờ ở đây.
– – – Đền Quan Công có khá muộn 28 Hàng Buồm, đền này hướng về phía Nam
– – – Hôi Quán Trung Quốc cũng có khá muộn ở 22 Hàng Buồm, vẫn thuộc bộ Bạch Hổ, vẫn hướng về Hiên Viên
– Ngõ Gạch : Đình Thanh Hà số 10 Ngõ Gạch thờ tướng Trần Lưu, thế kỉ 13 nhà Trần. Thực chất đình này bị dich từ Thanh Hà về đây.
– Cầu Đông (giao Ngõ Gạch với Hàng Đường) : Cầu Đông xưa bắc qua sông Tô Lịch ở ngã tư Ngõ Gạch – Hàng Đường. Cầu Đông nằm gần cửa chính Đông của kinh thành Thăng Long, đoạn hai bên bờ sông này được kè đá, nên có bến thuyền gọi là Bến Đá Cầu Đông. Chợ họp ngay đầu cầu có tên gọi là chợ Cầu Đông. Thời Pháp thuộc, khi đoạn sông Tô này bị lấp, hai chợ cũ Cầu Đông và chợ Bạch Mã nhập thành chợ Đồng Xuân. Phố Cầu Đông là phố mới được mở ra sau khi chợ Đồng Xuân được xây lại năm 1991. Chùa Cầu Đông nằm ở 38B phố Hàng Đường
– Hàng Cá :
– – – Đình Giáp Thượng của làng Đồng Thuận (hay đình Hàng Cá) ở 27 Hàng Cá thờ ông Lý Tiến thời vua Hùng thứ 6. Ông Lý Tiến sinh ra ở đây, nơi ngày xưa có trại Tiên ngư. Ông đánh giặc Ân cùng Thánh Gióng ở bộ Vũ Ninh, bị thương về hoá ở đây.
– – – Đình Ngũ Giáp ở số nhà 54 phố Hàng Cót là của thôn Tân Khai (vốn do năm giáp họp lại), ban đầu thờ thành hoàng làng, sau do đình Giáp Thượng của thôn Đồng Thuận bị Pháp bắt dỡ để mở đường nên bài vị của thần là Lý Tiến, một anh hùng chống ngoại xâm đời Hùng Vương thứ 6, được đưa về hợp thờ ở đình Ngũ Giáp.
– – – Đình Giáp thượng có thể nói là có tuổi đời cao nhất trong các đình của khu vực này, chịu một số phận vô cùng long đong. Đây là điểm cực kỳ quan trọng của hệ thống năng lượng đầu sông Tô Lịch
– Cống Chéo : Sau khi ở Hàng Cá, sông Tô Lịch quặt lên hướng Tây-Bắc theo phố Hàng Lược bây giờ. Hồi xưa, người bên phố Hàng Đồng cũ muốn sang chợ Cầu Đông phải đi qua một chiếc cầu tre, sau khi sông cạn cầu được thay thế bằng một chiếc cống lớn mà dân ta từng gọi là Cống Chéo Hàng Lược. Như vậy Cống Chéo phải nằm giữa ngõ Gạch và Hàng Lược, đồng thời nằm giữa Cầu Đông và Hàng Đồng, và có thể thuộc khu vực sau. Cống Chéo là điểm thuộc về hệ Vô Cực nên vô cùng phức tạp.
– Hàng Lược : Sông Tô Lịch chảy theo Hàng Lược hiện nay đến sát tường thành Hà Nội, làm nên con hào thiên nhiên cho đội quân phòng thủ thành. Tường thành nay biến thành phố Đường Thành, mà Pháp dùng để làm đường sắt. Trên phố Hàng Lược có chùa Vĩnh Trù trước đây vốn là đình làng Vĩnh Trù ở số 59 Hàng Lược (Đền Tứ Vị ở số nhà 39 Hàng Than thờ Tứ Vị Cô Nương như chùa Vĩnh Trù). Đình làng Phủ Từ ở số 19 Hàng Lược nay chỉ còn cái cổng.
– Trên phố Hàng Cót chạy ngay cạnh phố Hàng Lược có đền Tam Phủ ở số nhà 52 Hàng Cót, thờ các Mẫu. Đình Ngũ Giáp ở số nhà 54 phố Hàng Cót cũng thờ Lý Tiến đời vua Hùng Vương VI mà di từ khu vực Hàng Cá về đây.
Cầu Gỗ cũng được cho là nằm trên dòng chảy sông Tô Lịch để đi ra Cầu Chéo – Hàng Lược.
– Nhóm phố vuông góc với đường bờ đê sông Hồng
– – – Hàng Bạc : Đình Kim Ngân thờ Hiên Viên
– – – Hàng Chĩnh
– – – Cầu Gỗ là một phố vuông góc với đường bờ đê Sông Hồng : Cầu Gỗ là cây cầu nối hồ Tả Vọng (hồ Gươm ngày nay) và cặp hồ Thái Cực (hồ Hàng Đào), mà là phần còn lại của dòng sông Hồng, sau khi đổi dòng lùi xa hơn về phía Đông.
– – – Hàng Thùng
– – – Hàng Mắm, Hàng Muối
– – – Lò Sũ : Đình Trang Lâu ở nhà số 30 Lò Sũ, thờ hai vị thần Cao Sơn và Quý Minh.
– Nhóm phố song song với đường bờ đê sông Hồng
– – – Phố Hàng Bè chính là bờ đê, bến thuyền ngày xưa khi sông Hồng chưa đổi dòng. Hàng Bè Hàng Dầu, ngõ Phất Lộc nằm trên một trục
– – – – – – Ở 29 phố Hàng Bè vẫn còn di tích ngôi đình Ngũ Hầu, thờ Cao Tứ, một anh hùng truyền thuyết từ thời Thục Phán An Dương Vương, cũng là người được thờ ở đền Hương Nghĩa.
– – – – – – Đền Tiên Hạ tại số 48 ngõ Phất Lộc, thờ Nguyễn Trung Ngạn, cũng là người được thờ ở Hương Tương và Hương Bài.
– – – – – – Phố Hàng Dầu và Đinh Tiên Hoàng nằm cùng trên trục Hàng Bè không còn di tích
– – – Phố Nguyễn Hữu Huân song song với Hàng Bè
– – – – – – Đình Ưu Nghĩa tại nhà số 2A, thờ Nguyễn Trung Ngạn danh thần thời Trần.
– – – – – – Đình Đông An ở nhà số 94, mới dỡ bỏ chừng hai mươi năm trở lại đây, thờ Uy Linh Lang Đại vương.
– – – – – – Đình Thanh Yên ở nhà số 11A ngõ Nguyễn Hữu Huân thờ hai vị tiến sĩ họ Nguyễn và họ Vũ.
– – – – – – Đền Trang Lâu ở nhà số 77, thờ Mẫu Liễu Hạnh.
– – – Phố Hàng Tre
– – – Phố Đinh Tiên Hoàng : Có đền Bà Kiệu, đền Ngọc Sơn
Khu vực này sông Hồng đã đổi dòng nên khó tìm được dấu vết của sông Tô Lịch xưa. Nhưng tôi cho rằng khu vực phía Nam mới là cửa sông Tô Lịch thời kỳ đầu, sau này sông Hồng đổi dòng, lui xa hơn về phía Đông, sinh ra Bãi giữa, dòng Nhị Hà và Hồ Gươm, thì cửa sông Tô Lịch mới di lên chợ Gạo. Lý do
– Đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ hay thần sông Tô Lịch cùng các đền dọc phố Bạch này đều hướng về phía Nam, nghĩa quay lưng lại Nguyễn Siêu là nơi có dòng sông Tô Lịch. Điều này chứng tỏ hệ thồng đền này phải quay về phía gốc của sông Tô Lịch mà nằm ở phía Nam. Về hướng, đình Bạch Mã đang nhìn về phía Hồ Gươm và Hồ Thái Cực.
– Các thần được thờ tại khu vưc Hàng Bè – Nguyễn Hữu Huân – Phất Lộc giống hệt như các thần được thờ ở khu chợ Gạo. Đó là Cao Tứ và Nguyễn Trung Ngạn. Ở đền Cao Tứ có tích rằng ông có anh em sinh đôi.
– Các cặp nam thần được thờ ở khu vực phía Nam này rất nhiều, và tôi cho rằng họ vẫn là hai vị thần giữ 2 luồng năng lương đối xứng ở cửa sông cho các thời kỳ khác nhau.
2. Từ Bạch Mã trấn Đông Thăng Long đến Quán Thánh trấn Tây Thăng Long
– Vườn hoa Hàng Đậu và bốt Hàng Đậu
– Đường Phan Đình Phùng (phía ngoài mặt bắc thành Hà Nội) – Cửa Bắc thành Hà Nội – Đường Phan Đình Phùng : Pháp đã xây một loạt công trình để lấp sông cùng với việc phá thành Thăng Long mà tiêu biểu là trường Phan Đình Phùng nằm đối diện với di tích Cửa Bắc nơi trước kia là sông Tô Lịch
– Khu vườn hoa Lý Tự Trọng và vườn hoa Mai Văn Thưởng là nơi giao của các đường Hùng Vương, Quán Thánh, đường Thanh Niên, Hoàng Hoa Thám, Thuỵ Khê, Mai Văn Thưởng, Trấn Vũ, Nguyễn Đình Thi
3. Thuỵ Khê trước Hồ Khẩu
Lòng sông Tô Lịch ở đoạn phố Thuỵ Khê giờ đã bị bê tông hoá thành đường, bên dưới đường là cống ngầm đi qua một loạt địa điểm có tính lịch sử nằm dọc đường Thuỵ Khê là Hoàng Hoa Thám là di tích lịch sử đền đình miếu được xây dựng qua các đời vua hoặc các công trình do Pháp xây dựng khi lấp sông và phá thành Hà Nội. Cụm di tích đầu đường Thuỵ Khê trước Hồ Khẩu hầu hết đã bị phá huỷ hoặc di chuyển bởi thực dân Pháp như tình trạng với trai Khán Xuân của Thập Tam Trại với một vài dấu tích cũ sau
– Hệ thống trường Chu Văn An từ mẫu giáo, cấp 2 đến cấp 3 (Trường Bưởi xưa nay là trường Chu Văn An cấp 3)
– Cống Đỗ, xưa là dốc Lafore, chạy theo hướng đâm vào chân núi Sưa (nằm trong công viên Bách Thảo) và đường Ngọc Hà
– Đền Lê Cố ngõ 124 Thuỵ Khê
4. Hồ Khẩu
– Cụm di tích Hồ Khẩu nằm về bờ Đông của sông Tô Lịch nằm dọc theo trục chính của làng Hồ Khẩu thông từ Tô Lịch ra Hồ Tây : Đền Vệ Quốc – chợ Hồ – Đình làng Hồ Khẩu – Đền Dực Thánh
5. Thuỵ Khê sau Hồ Khẩu
– Hệ thống đền nằm ở bờ Tây của sông Tô Lịch thông sang Hoàng Hoa Thám
– – – Chùa Châu Lâm (chùa Bà Đanh) bị di chuyển từ khu vực trường Bưởi về sáp nhập với chùa Phúc Long ở ngõ 199 phố Thụy Khuê hiện nay
– – – Đền Voi Phục (còn gọi là đền Thuỵ Khê) thuộc tổng Thuỵ Chương xưa của Thập Tam Trại nằm trong cùng một quần thể với Đền Thuỵ Ứng Linh Từ ở số 251 Thụy Khuê;
– – – Đền Mẫu Thăng Long 339 đường Thuỵ Khê
– – – Đền Đồng Cổ
– – – Đền Long Tỉnh (giếng Mắt Rồng)
– Hệ thống đền nằm ở bờ Đông của sông Tô Lịch thông với Hồ Tây/Sông Hồng : Đình Đông Xã, chùa Mật Dụng, Đình An Thọ, Đình An Thái đều thuộc làng An Thái xưa
6. Cửa Giang Tân
Cửa Giang Tân nối với sông Thiên Phù với các di tích gần nhất là
– đình An Thái phố Thuỵ Khuê
– đền Long Tỉnh phố Thuỵ Khuê
– đền Cống Yên phố Hoàng Hoa Thám
Đoạn sông Tô Lịch mô tả bên trên đến cửa Giang Tân hiện nay đã bi lấp hoặc bị bê tông hoá chảy ngầm dưới dạng cống, đoạn sông Tô Lịch mô tà từ phía sau tính từ cửa Giang Tân vẫn còn giữ được dù ô nhiễm
7. Sông Tô Lịch đường Bưởi
– Đường Bưởi/đường Láng chạy một bên
– Đường Nguyễn Đình Hoàn/Quan Hoa/Nguyễn Khang/Nguyễn Ngọc Vũ/Thượng Đình/Kim Giang ở bờ bên kia của sông Tô Lịch.
8. Sông Tô Lịch đoạn đi cạnh hồ Thủ Lệ
– Đoạn này đường Bưởi chuyển thành Đường Láng và giao với Đường Cầu Giấy đi về Đê La Thành
– Trấn Tây Thăng Long đền Voi Phục nằm cạnh công viên Thủ Lệ
9. Khúc sông giao đường Nguyễn Chí Thanh – Trần Duy Hưng đi thẳng theo Láng Hoà Lạc về Ba Vì
10. Khu sông giao với đường Láng Hạ, gần đó có đình Ứng Thiên thờ Mẫu Địa
11. Khúc sông giao với đường Nguyễn Trãi đi về Hà Đông
12. Ngã ba với sông Lừ ở phía tây nam hồ Định Công và tây bắc hồ Linh Đàm (khu vực gần Viện Y học Cổ truyền Quân đội)
13. Ngã ba hợp nhất nhánh sông Tô Lịch Nhị Hà và nhánh sông Tô Lịch Yên Sở (nhánh sông này nối ra sông Hồng ở giữa Khuyến Lương và Yên Mỹ)
14. Ngã ba sông với sông Nhuệ ở khu vực Cầu Tó nối về sông Nhuệ
===
NHÁNH SÔNG TÔ LỊCH NAM
Tôi tạm gọi nhánh sông Tô Lịch phía Nam là Tô Lịch Yên Sở (để phân biệt với nhánh Tô Lịch Nhị Hà ở phía Bắc) xuất phát từ cửa sông Sô Lịch nối với sông Hồng
– Sông Tô Lịch Yên Sở chạy Đông – Tây
– – – Cực Đông là cửa sông nối với sông Hồng ở phía đông khu vực đầm Yên Sở
– – – Cực Tây nối với sông Tô Lịch Nhị Hà
– Ở bờ Nam của khu hồ đầm Yên Sở, sông Tô Lịch Yên Sở có 2 nhánh chạy trục Bắc – Nam ôm vòng hai bên khu vực Đại Hồ – Trấn Nam của Thăng Long xưa
– – – Nhánh sông Kim Ngưu rồi chạy song song với sông Hồng theo đường Bắc Nam (trục đường Tam Trinh ngày nay) về khu vực giao giữa Lò Đúc và Trần Khát Chân
– – – Nhánh sông Sét chảy quả khu vực Giáp Nhị, Giáp Tứ, Giáp Bát, nối vào sông Lừ ở khu vực hồ Phương Liệt và hồ Rùa
Sông Tô Lịch Yên Sở chảy rẽ nhánh tạo hình chữ vạn ở phía nam Thăng Long
– – – Đông Bắc : Nhánh Kim Ngưu chạy bên Đông của trấn Nam Thăng Long và Đại Hồ xưa của Thăng Long
– – – Tây Bắc : Nhánh sông Sét chạy bên Tây của của trấn Nam Thăng Long và Đại Hồ xưa của Thăng Long
– – – Đông : Nhánh sông Hồng thông với sông Hồng
– – – Tây : Nhánh sông Nhuệ thông với sông Nhuệ và sông Tô Lịch Nhị Hà
Trong khi đó, sông Tô Lịch Nhị Hà chảy liền mạch thành một vòng cung ở phía Bắc Thăng Long
– – – từ trấn Đông Thăng Long (đền Bạch Mã)
– – – qua cửa Bắc thành Thăng Long
– – – lên trấn Bắc Thăng Long (đền Quán Thánh),
– – – vòng lên cực Bắc là Giang Tân (đình An Thái & đền Long Tỉnh chỗ nối sông Tô Lịch và sông Thiên Phù)
– – – sang phía Đông qua Trấn Tây (đền Voi Phục)
Hai nhánh của sông Tô Lịch, nhánh Tây Bắc Nhị Hà và nhánh Đông Nam Yên Sở gặp nhau rồi nối với sông Nhuệ tạo nên một chữ Vạn có trung tâm là cầu Tó
– Sông Lừ
– Sông Nhuệ
– Sông Tô Lịch Yên Sở
– Sông Tô Lịch Nhị Hà
===
VÀNH ĐAI TÔ LỊCH BAO QUANH THĂNG LONG
Nếu nối sông Tô Lịch Nhị Hà với sông Tô Lịch Yên Sở và đoạn sông Hồng nối giữa cửa Giang Khẩu và cửa Yên Sở, chúng ta sẽ được một vòng tròn sông ôm trọn Thăng Long, với hai điểm cực quan trọng sau
– Cực Bắc : cửa Giang Tân, tại đây có hệ thống đình, đền, miếu ở 4 góc chéo nằm giữa 4 trục đường Đông Tây Nam Bắc của Chợ Bưởi đã mô tả ở trên
– – – Góc Đông Nam : Đình Yên Thái và hệ thống di tích của phường Thuỵ Khê.
– – – Góc Tây Nam : Đình Cống Vị và đình Cống Yên nằm bên bờ sông Tô Lịch nối với hệ thống di tích của Thập Tam Trại.
– – – Góc Đông Bắc nằm ở hai bên đường Lạc Long Quân, có đình Bái Ân, kết nối đình Yên Thái qua sự tích ông bà Dậu/Giầu.
– – – Góc Tây Bắc nằm hai bên đường Hoàng Quốc Việt. Nằm giữa hai góc này là đường Võ Chí Công.
– Cực Nam
– – – Chữ Vạn của sông Lừ, sông Nhuệ, 2 sông Tô Lịch
– – – Chữ Vạn của sông Tô Lịch Yên Sở, sông Kim Ngưu, sông Sét
Chìa khoá nối giữa hai góc Đông Nam & Tây Bắc là đền Voi Phục (đền Thuỵ Khê) và chùa bà Đanh. Lễ hội đền Voi Phục Thuỵ Khê có phần rước kiệu Thánh về chùa Bà Đanh, mà trước kia nằm về phía trường Bưởi. Theo lịch sử của khu vực Thuy Khê mà có từ thời vua Hùng thì tôi cho rằng đền Voi Phục này cổ hơn đền Voi Phục của Thủ Lệ mà chỉ được xây khi có Thăng Long. Theo quan điểm cá nhân của tôi thì thánh Uy Linh Lang chính là Đại Vương Linh Lang đánh nhà Thục cùng với Tản Viên Sơn Thánh, mà cũng vẫn là Linh Lang Đại Vương giữ trấn Tây Thăng Long. Các thánh có thể giáng rồi hoá nhiều lần nên Đức Linh Lang sau khi giáng trần ở đời Hùng Vương 18, lại giáng trần ở đời nhà Lý (đức Uy Linh Lang), rồi giáng lần nữa vào thời Lý Thánh Tông đánh quân Tống rồi được thờ ở đền Voi Phục Thủ Lệ. Cho nên ngày xưa các trại của Thâp tam trại cùng thờ Linh Lang Đại Vương, gồm Thủ Lệ, Vạn Phúc, Kim Mã, Thuỵ Chương (là phần nam của Thuỵ Khê ngày nay) đều làm lễ chung với nhau cho đến năm 1945 mới làm lễ riêng.
Bờ Tây của thành Thăng Long chính là dòng chảy phía Tây của nhánh sông Tô Lịch Nhị Hà đi qua trấn Tây Thăng Long mô tả bên trên
Bờ Đông của thành Thăng Long là khu vực sông Hồng chạy qua các cây cầu tính từ Bắc xuống Nam như sau
– Cầu Nhật Tân nối với cửa Giang Tân (giao sông Tô Lich và sông Thiên Phù) qua trục đường Võ Chí Công
– Cầu Long Biên nối với cửa Giang Khẩu (giao sông Tô Lịch và sông Hồng)
– Cầu Chương Dương nối với sông Tô Lịch Nhị Hà và sông Tô Lịch Yên Sở qua các mạch ngầm thông với Hồ Gươm
– Cầu Vĩnh Tuy nối với sông Tô Lịch Yên Sở theo sông Kim Ngưu và nối với sông Tô Lịch Nhị Hà theo trục đường Láng – Trường Chinh – Đại La – Nguyễn Thị Minh Khai
– Cầu Thanh Trì nối với hai chữ Vạn ở phía Nam Thăng Long của sông Tô Lịch Yên Sở
Với những người sinh ra lớn lên ở Hà Nội như tôi và những người yêu Hà Nôi, coi Hà Nội như trái tim của nước Việt, thì Tô Lịch là động mạch vành, tĩnh mạch vành, là dòng máu nuôi tim.
===
Chợ Bưởi
Cổng làng
Phường Cổ Yên Thái
Nhịp chày Yên Thái
Chùa Châu Lâm
Đền Voi Phục
Giếng mắt rồng
Giếng Mắt Rồng
Sông Thiên Phù
Sông Tô Lịch
Cống Chéo Hàng Lược
Đền Hương Nghĩa
Đền Hương Tượng
Phố Hàng Buồm
Phố Nguyễn Hữu Huân
VÙNG KHƯƠNG CỦA SÔNG TÔ LỊCH
===
Thông thường các vùng của sông Tô Lịch như Kẻ Vòng, Kẻ Mọc, Láng … chỉ nằm ở một bờ sông, nhưng có vùng của sông Tô Lịch mà cả hai bờ có cùng tên gọi hay cùng thuộc một miền.
Có một vùng của sông Tô Lịch gần ngã tư Sở mang tên Khương ở cả hai bờ.
– Bờ Tây là Khương Đình gồm Hạ Đình và Thượng Đình
– Bờ Đông là Tam Khương gồm Khương Thượng, Khương Trung, Khương Hạ.
Khương Đình
– Thượng Đình đã mất đình, mà thờ đầu của Từ Vinh, cha của Từ Đạo Hạnh, chỉ còn chùa Tam Huyền nằm ngay cạnh đình xưa và cũng nằm bên bờ sông Tô, sau chùa có am Từ Vinh, là lăng mộ của ông. Tam Huyền là nơi có rước hội của Láng, năm nào thánh Láng rước kiệu cha sẽ về Tam Huyền.
– Hạ Đình có đình Khương Thượng Hạ hay còn gọi là đình làng Vòng, nằm ngay bên bờ sông Tô Lịch
Hình dung vùng này tương đương với một cái đầu rồng (mộ Từ Vinh thờ đầu của ông và có tên Am Hoàng Long) thì cái đầu này cần
– Liên quan đến các khúc khác của con rồng như đã nói trong sự tích bi chặt ba khúc của Từ Vinh. Vùng Thượng Đình liên quan đến vùng thờ bụng và chân của Từ Vinh.
– Liên quan đến người mẹ của Từ Đạo Hạnh, vợ Từ Vinh, ở làng Hạ Yên Quyết, Bach Liên Hoa
– Liên quan đến Láng, người con của Từ Vinh
– Liên quan đến Đại Điên, đối thủ của Từ Vinh ở vùng Cầu Giấy, Dịch Vong và Thượng Yên Quyết
– Liên quan đến các vùng đầu rồng, mắt rồng ở Yên Thái, Nghĩa Đô Kẻ Bưởi
Tam Khương
– Khương Thượng
– – – Đình Khương Thượng thờ thần Quy Động (gò Rùa)
– – – Chùa Bộc
– Khương Trung
– – – Đình Khương Trung
– Khương Hạ
– – – Đình Khương Hạ
Vùng Tam Khương cũng liên quan đến
– Vị tổ của vùng Luân xa 6, vùng đầu là Khổng Tử, trong khi Hạ Đình và Thượng Đình liên quan đến tuyến tùng (LX67) và tuyến yên (LX56).
– Vùng ngã từ Sở và chùa Phúc Khánh ở ngã tư Sở cũng liên quan đến vùng này, vì nó mang năng lương vàng kim và hướng trời.
Từ Khương có nghĩa là Gừng.
Họ Khương cũng được cho là họ của Thần Nông, và Kinh Dương Vương (cháu Thần Nông).
Khương là họ của một nhân vật huyền sử thường được cho là của Tàu, nhưng mà quê gốc ở Việt Nam là Khương Tử Nha, mà liên quan đến sự thành lập của nhà Chu sau khi đánh bại nhà Thương, và Khương là họ của bốn nước nước Tề, Lã, Thân và Hứa.
Ở các vùng đặc biệt như vậy của sông Tô hay bất kỳ dòng sông nào, mà đối xứng hai bờ, chúng ta đều sẽ thấy năng lượng Rồng.
===
Họ Khương
Kinh Dương Vương (Khương Lộc Tục) (2919 TCN – 2792 TCN) chút Thần Nông (Viêm Đế), Thần Nông họ Khương.
KẺ MỌC
===
Kẻ Mọc là vùng đất lâu đời nằm ở bờ Nam sông Tô Lịch. Có câu
– “Lắm lúa Kẻ Giàn, lắm quan Kẻ Mọc” vì Kẻ Giàn là vùng đất nông nghiệp, nổi tiếng vì lúa, còn Kẻ Mọc là vùng nổi tiếng vì lắm người làm quan
– “Quan Kẻ Mọc, thóc làng Khoang”, vì Kẻ Mọc là vùng đất học, nhiều người đỗ đạt làm quan
– “Tiền Kẻ Mọc, thóc Mễ Trì”, vì Kẻ Mọc ngoài làm nông và làm quan, cũng có người buôn bán giầu có
Dọc theo sông Tô Lịch tính từ ngã 3 Bưởi của sông Tô Lịch và sông Thiên Phù, có các Kẻ sau nằm xung quanh Kẻ Mọc
– Kẻ Bưởi (vùng Nghĩa Đô, quanh chợ Bưởi), đối xứng với vùng Hồ Tây
– Kẻ Vòng (vùng Dịch Vọng, Cầu Giấy), đối xứng với Thập Tam Trại ở bên kia sông Tô Lịch
– Vùng có cấu trúc hoa thị của Trung Kính (Trung Kính Hạ, Trung Kính Thượng) và Yên Quyết (Hạ Yên Quyết/Bạch Liên Hoa, Thượng Yên Quyết) bên này sông Tô Lịch, đối xứng với vùng Láng (Láng Thượng, Láng Hạ, Láng Trung bên kia sông Tô Lịch
– Kẻ Mọc
– Kẻ Lủ
– Kẻ Mơ
Hội Mọc cùng với hội Láng và Thập Tam Trại là những lễ hội rất lớn của vùng ven sông Tô Lịch.
– Lễ hội Láng liên quan đến cầu Cót bắc qua sông Tô Lịch
– Lễ hội Mọc liên quan đến cầu Mọc.
– Lễ hội Thập Tam Trại liên quan đến làng Lệ Mật bên kia sông Hồng/Hồ Tây
Khác với hội Láng mà vắt hai bên bờ sông Tô Lịch và chạy xuyên qua nhiều Kẻ và có thể gọi là Lễ hội đặc trưng nhất của vùng sông Tô Lịch, hội Mọc và hội Thập Tam Trại liên quan đến hai bờ khác nhau của sông Tô.
Ca dao có câu:
“Làng Mọc mở hội tháng Hai
Rước hôm 11, 12 rõ ràng”.
Vùng Mọc, tên chữ Mộc Cự, sau đổi thành Nhân Mục chia làm hai khu vực nằm 2 bên sông Tô Lịch là Nhân Mục Cựu và Nhân Mục Môn
Nhân Mục Cựu nằm bờ Đông (Bắc sông Tô Lịch) gồm Hạ Đình và Thượng Đình, nhưng lại ứng với Tam Khương hay Khương Đình, hay gọi là làng Gừng ở bên kia sông Đuống
Nhân Mục Môn nằm ở bờ Nam (Tây) sông Tô Lịch gồm 5 làng là Giáp Nhất
– Lý Thôn, hay Giáp Nhất là làng đầu tiên có người đỗ đạt cao
– – – Đình Giáp Nhất thờ ông Phùng Luông, cháu gọi Bố Cái Đại vương Phùng Hưng là chú, có công cùng Bố Cái Phùng Hưng đánh đổ quân đô hộ nhà Đường thế kỷ VIII.
– – – Ngoài ra, đình Giáp Nhất cũng là nơi thờ hoàng hậu Phạm Thị Uyển (vợ của vua Mai Hắc Đế) cùng hai người em trai là Phạm Miện và Phạm Huy. Cả 3 chị em bà đều là những danh tướng của Phùng Hưng và là anh, chị, em họ với Phùng Luông.
– – – Chính vì cùng thờ chung các vị này, nên làng Giáp Nhất kết chạ với làng Hoà Mục, cũng nằm bên bờ sông Tô Lịch.
– – – Điện Đức Anh, đền Cây Quế, đình Hoà Mục
– Quan Nhân cái tên đã thể hiện là vùng đất của người làm quan
– – – Đình thờ Trung Nghĩa Đại Vương, tức Thánh ông Hùng Lãng Công, người có công dẹp giặc Nam Chiếu và Thánh bà Trương Mỵ nương vốn là con gái của làng
Làng Quan Nhân http://hanoimoi.com.vn/…/1000_nam…/15139/lang-quan-nhan
Đình Quan Nhân https://thanhxuan.hanoi.gov.vn/…/-inh-quan-nhan-phu-duc…
Lễ hội làng Quan Nhân https://nguoihanoi.com.vn/tuc-tim-khoi-chi-trong-le-hoi…
– Cự Chính gồm Cự Lộc và Chính Kinh là hai làng chung một đình, đối với Quan Nhân là một làng, có thể nói là có hai đình cạnh nhau thờ Thánh Ông và Thánh Bà. Nếu Giáp Nhất và Cự Chính là đất học, thì Cự Chính là đất võ nhiều hơn
– – – Chung một ngôi đình là đình Cự Chính hoặc đình con Cóc, thờ Lã Đại Liệu, một trong 12 sứ quân, chiếm cứ miền Tế Giang (nay thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) và con trai Lã Tá Đường.
Làng Chính Kinh http://hanoimoi.com.vn/…/1000_nam…/14495/lang-chinh-kinh
Chính Kinh & Cự Chính https://galatravel.vn/gioi-thieu-lang-cu-loc-chinh-kinh…
– Phùng Khoang cũng là đất võ
– – – Đình Phùng Khoang thờ Đoàn Thượng, tướng thời nhà Lý. Phùng Khoang kết chạ với làng Triệu Khúc
Hội Mọc liên quan đến 5 làng Nhân Mục Môn và 5 năm mở một lần, nên nếu không có gián đoạn thì sau 25 năm, một làng Nhân Mục Môn mới lại đứng lên làm chủ hội.