Thần rắn ông Cộc ông Dài & Thần rắn nhiều đầu nhiều đuôi

Loading

CA DAO, TỤC NGỮ VỀ RẮN CỤT ĐUÔI

Ông Nhăng mà lấy bà Nhăng
Đẻ được con rắn thằn lằn cụt đuôi
Ông Nhăng bảo để mà nuôi
Bà Nhăng đập chết đem vùi đống tro
Ông Nhăng bảo để mà kho
Bà Nhăng đập chết đem cho láng giềng
Có kho thì kho với riềng
Đừng kho với ớt tốn tiền uổng công

—o—

Rắn cụt đuôi người ta còn sợ
Bậu lỡ thời như nợ kéo lưng

(Vè gái lỡ thì)

—o—o—o—

Sự tích ông Cộc ông Dài (hay sự tích Đức Ông Tuần Tranh ở sông Kỳ Cùng)

Ngày xưa, ở vùng sông Tranh thuộc về tỉnh Đông có hai vợ chồng một nhà nọ, gia tư cũng vào hạng khá, nhưng tuổi già mà chưa có con.

Thường ngày họ cầu trời có một đứa con cho vui tuổi già. Một hôm trong khi ra đồng phát ruộng, người chồng nhặt được hai quả trứng to bằng nắm tay, bèn đưa cho vợ xem. Xem xong, chồng định vứt đi, nhưng người vợ ngăn lại:

– Đừng vứt, cứ để cho nó nở xem thử con gì.

Bèn đưa vè bỏ vào vò đặt bên cạnh bếp. Chỉ trong mấy ngày, trứng nở thành một cặp rắn nhỏ trên đầu có mào đỏ rất xinh. Thấy vậy, người chồng định đánh chết, nhưng vợ ngăn lại:

– Đừng đánh tội nghiệp. Cứ để mặc tôi, tôi nuôi chúng làm con.

Hai con rắn rất khôn, từ đó quấn quít với người, đi đâu cũng đi theo. Chúng chóng lớn, mới bằng chiếc đũa, chẳng bao lâu đã to bằng ngón tay. Một hôm người chồng cuốc vườn, cặp rắn bò theo sát nút để kiếm cái ăn trong đất mới lật. Vô tình một nhát cuốc bổ xuống làm đứt đuôi một con. Con rắn quằn quại. Người vợ kêu lên:

– Chà, tội nghiệp! Mày cứ quẩn bên chân ông lão làm gì cho khổ thân thế này!. Từ đó con rắn bị đứt đuôi ngày một trở nên hung dữ hơn con kia.

Hai con càng lớn càng ăn khỏe. Chúng thường bò vào chuồng gà các nhà lân cận tìm bắt gà con. Bị xóm giềng chửi bới luôn canh, một hôm chồng bảo vợ:

– Thôi! Ta đem thả chúng xuống sông cho chúng kiếm ăn, kẻo để lại có ngày mang họa.

Hai vợ chồng bèn mang cặp rắn đến bờ sông thả xuống và nói:

– Bớ các con! Các con hãy ở đây tự kiếm lấy cái nuôi thân, đừng có trở về, bố mẹ không đủ sức nuôi các con nữa!

Cặp rắn vừa thả xuống nước, lập tức sóng gió nổi lên ầm âm, các loài thủy tộc ở các nơi về tụ hội bơi lượn đông đảo. Hai vợ chồng rất kinh ngạc. Đêm lại, chúng về báo mộng cho họ biết là chúng đã được vua Thủy cho cai quản khu vực sông Tranh.

Từ đó hai con rắn làm oai làm phúc suốt cả một khúc sông rộng. Người ta lập đền thờ chúng bên sông, gọi chúng là Đức ông tuần Tranh, cũng gọi là Ông Dài, ông Cộc. Tuy mọi thứ cần dùng đã có bộ hạ cung đốn đầy đủ, nhưng chúng vẫn thỉnh thoảng bắt súc vật và người qua lại trên sông. Duy ông Cộc bản tính dữ tợn, ngày một trở nên ngang ngược, lại tỏ ra hiếu sắc. Thuyền bè đi qua đó, nó thường xoáy nước nổi sống dữ dội làm cho bị đắm để bắt người lấy của. Mỗi lần nghe tin có xảy ra tai nạn, hai vợ chồng bố mẹ nuôi ông Dài ông Cộc vẫn thường ra bờ sông hết lời van vái con, để mong chúng đỡ phá phách. Chúng cũng có nghe, nhưng rồi chứng nào vẫn tật ấy.

o O o

Một hôm, có hai vợ chồng một người họ Trịnh có việc đi thuyền qua đấy đỗ lại. Người vợ là Dương thị vốn người xinh đẹp làm cho ông Cộc mê mẩn. Đêm lại, bỗng dưng từ dưới nước có hai người con gái bước lên thuyền, mỗi người đầu đội một mâm lễ vật. Chúng đặt mâm xuống trước mặt anh học trò và nói:

– Đây là lễ vật của ông Cộc. Đức ông chẳng bao giờ hạ mình làm những việc như thế này, nhưng chỉ muốn nhà thầy vui lòng nhường lại chỗ cho người vợ.

Người học trò chưa bao giờ nghe có chuyện trắng trợn thế ấy, bèn quát:

– Về báo với đức ông chúng mày hãy mau mau bỏ thói ngang ngược. Ta là người đọc sách thánh hiền, không bao giờ ta lại sợ loài quỷ quái.

Chưa dứt lời đã không thấy hai người con gái đâu nữa. Người học trò tuy nói cứng, nhưng vốn từng nghe những câu chuyện về ông Dài, ông Cộc nên cũng có ý sợ. Bèn bảo vợ cầm lấy tay nải rồi cả hai từ giã chủ thuyền bước lên bờ. Nhưng không kịp nữa rồi. Ông Cộc đã nói là làm. Thấy con mồi đã lên bộ, ông bèn đuổi theo, hóa làm một trận mưa bão kinh khủng làm cho họ không thể tiếp tục đi được. Người học trò đành đưa vợ vào trú ở một ngôi đền gần đó. Mưa bão kéo dài suốt đêm. Sáng dậy bão tạnh, người học trò tỉnh dậy đã thấy vợ mình biến đi đâu mất. Anh theo dấu đến bờ sông chỉ còn thấy quần áo của vợ trút bỏ lại đó.

Đau xót vì mất người vợ yêu, anh chàng học Trịnh bèn đi lang thang khắp nơi tìm cách trả thù. Trải qua bao nhiêu ngày tháng. Một hôm qua một cái chợ, anh bỗng gặp một ông thầy bói hình dung cổ quái đang ngồi đón khách. Anh ngồi xuống xin một quẻ về gia sự. Thầy bói gieo quẻ, nói:

– Nhà ngươi đang có sự lo buồn.

Anh đáp lời:

– Xin thầy cứ cho biết.

– Vợ nhà ngươi bị một kẻ có quyền cướp mất.

– Chịu thầy. Xin cho biết vợ tôi hiện nay ở đâu? và có cách gì cứu được vợ tôi không?

– Không giấu gì nhà ngươi, ta vốn là Bạch Long hầu vốn có phận sự làm mưa ở vùng này. Thấy việc tác quái, ta muốn giúp nhà ngươi trả được mối thù. Ta đợi nhà ngươi ở đây đã lâu. Kẻ kia tuy quyền thế nhưng không thể làm loạn chính pháp. Vậy nhà ngươi hãy theo ta. Trước hết hãy dò tìm tung tích vợ ngươi để nắm được chứng cớ đầy đủ.

Người học trò tưởng không còn gì mừng hơn thế nữa, bèn sụp lạy Bạch Long hầu, rồi bước theo bén gót. Đến bờ biển, Bạch Long hầu bảo anh nhắm mắt, đoạn rẽ nước đưa anh đi mãi, đi mãi đến một hòn đảo xa tít ngoài biển Đông. Sáng hôm sau, ông hỏi:

– Ngươi có mang theo vật gì của vợ để nàng làm tin không?

Người học trò đáp: – “Có.” – Nói rồi đưa ra một cành thoa của vợ. Bạch Long hầu cầm lấy đi ngay. Chỉ hai hôm sau, ông đã về kể cho chàng nghe tất cả mọi việc và nói:

– Vợ người vẫn một lòng một dạ với người. Đó là một người thủy chung. Vậy mai đây ta sẽ đưa nhà ngươi đến triều đình đánh trống “đăng văn”, khi đưa nàng ra đối chất, tự nàng sẽ tố cáo kẻ thù. Nhưng ngươi cũng phải viết sẵn một lá đơn kiện mới được.

Chưa đầy ba ngày, vụ kiện của người học trò đã xử xong. Ông Cộc không ngờ Dương thị lại vạch tội hắn trước tòa án vua Thủy, tuy rằng nàng đã sinh với hắn một đứa con. Vua Thủy khi thấy chứng cớ sờ sờ về hành động gian ác của bộ hạ mình thì đùng đùng nổi giận. Vua thét:

– Hãy bắt nó đày đi thật xa cho đến tận cùng của đất nước!

Dương thị được đưa trở về cõi trần với họ Trịnh, hai vợ chồng lại đoàn tụ. Còn đứa bé do Dương thị đẻ ra với ông Cộc thì giao cho ông Cộc nuôi.

Ngày ông Cộc đi đày, tôm cá rắn rết náo động cả một khúc sông Tranh. Quân lính áp giải ông Cộc ra biển rồi đi ngược lên phía bắc. Trải đã nhiều ngày, một hôm họ đến một vùng nhìn vào thấy rừng cây mịt mù, không hề có khói lửa. Ông Cộc hỏi một số người địa phương:

– Đây là đâu?

Họ đáp:

– Nơi đây đã sắp đến địa phận nước Việt rồi. Đi qua nữa là sang nước khác.

Ông Cộc bảo quân lính áp giải:

– Vậy là đã đến chốn kỳ cùng rồi đó. Theo lệnh nhà vua, ta sẽ ở đây.

Cả đoàn bấy giờ rẽ sóng kéo vào cửa sông. Nhưng ở khúc sông này từ lâu vốn có một con thuồng luồng trấn trị. Hắn rất không muốn chia sẻ quyền hành với kẻ mới đến. Cho nên khi thấy ông Cộc tới, lập tức một cuộc giao phong diễn ra dữ dội từ cửa sông vào cho đến thượng nguồn. Nước bắn tung tóe, tôm cá chết như rạ. Hai bên bờ lở sụp, sinh mệnh tài sản của dân ven sông bị thiệt hại rất nhiều. Hai bên đánh nhau mấy ngày không phân thua được. Ông Cộc bị thương tích đầy người, nhưng thần thuồng luồng cũng bị toạc da chảy máu và bị đứt mất một bên tai. Thấy thế, những quân lính áp giải vội chạy về báo cho vua Thủy biết. Cuối cùng việc lại đưa đến tòa án cho vua Thủy. Vua bắt hai bên phải chia đôi khu vực, định lại ranh giới rõ ràng, và từ nay về sau không được xâm lấn của nhau. Ông Cộc bèn cho đưa một tảng đá lớn như hình một cái đầu đặt ở ven sông. Bên phía thuồng luồng cũng làm phép hiện ra một cái chuông úp ở bờ bên này làm giới hạn.

Nhưng thần thuồng luồng vẫn chưa hết giận, vì cho rằng bỗng tự dưng vô cớ bị chia sẻ quyền hành là do ông Cộc mà ra. Bởi vậy thuồng luồng ta thỉnh thoảng lại gây sự đánh nhau với ông Cộc. Dân chúng hai bên bờ sông mỗi lần nghe tiếng chuông, tiếng nước sôi động ầm ầm thì biết rằng sẽ có cuộc giao tranh kịch liệt. Về sau vua Thủy giận thuồng luồng “bất tuân thượng lệnh”, bèn sai quân kéo tới bắt sống, xích lại, giao cho thần Núi địa phương canh giữ, còn ông Cộc từ đấy được cai quản cả hai khu vực.

Ngày nay, bên bờ nam sông Kỳ Cùng, chỗ chân cầu tỉnh lỵ Lạng Sơn còn có một hòn đá lớn như hình cái đầu. Còn bờ bên kia, trong một ngôi chùa cổ còn có cái chuông bị xích, nhưng đã đứt mất một bên tai. Người ta nói cái đầu bằng đá là do ông Cộc đặt làm mốc, còn cái chuông là hiện thân của thuồng luồng bị thần Núi xích tại đây. Cái tên sông Kỳ Cùng cũng xuất phát từ cuộc đày ải ông Cộc mà có.

—o—

Sự tích ông Cộc ông Dài, Thánh phụ Thánh mẫu ở đền hàng Tổng (Kim Bài, Thanh Oai, Hà Nội) 

Thuở xưa, ở làng Đại Từ thuộc xã Lam Điền huyện Chương Mỹ (Hà Tây) bên bờ sông Đáy, có một chàng trai nghèo khó chuyên sống bằng nghề đánh giậm, đã đứng tuổi rồi mà vẫn còn vò võ một thân. Trước đó, ở bãi Kim Bài thuộc Thanh Oai (Hà Tây) cách Đại Từ khoảng 5 cây số đường sông, có một nhánh nước của sông Đáy chảy ra, là nơi có nhiều tôm, cá, cua, ốc. Chàng trai từ Đại Từ xuống tận đây đánh giậm, rồi sau đó lấy được một bà cũng đứng tuổi như chàng, làm nghề mò cua bắt ốc. Hai ông bà dựa vào nhau mà sống rồi làm tạm một cái lều lợp bằng lá sen, và họ không có con cái gì, nên mọi người gọi là “ông Bõ bà Bõ”

Một hôm ông đi đánh giậm, ba lần liền nhặt được một đôi trứng rắn, cho là sự lạ, bèn đem về nhà ấp ủ. Mấy ngày sau đôi trứng nở thành đôi rắn, rồi được chăm sóc, đôi rắn lớn dần, ngày đêm quấn quýt bên ông bà như con cái. Đôi rắn giúp cho hai ông bà đánh bắt được nhiều tôm, cá, cua, ốc. Cuộc sống khấm khá dần, họ vào làng Kim Bài xin đất làm nhà.

Một hôm ông đến nhà hàng xóm, hai chàng rắn đi theo, một chàng bị con chó dữ của gia chủ đớp mất khúc đuôi, nhưng sau đó, được hai ông bà chăm sóc nên đã tai qua nạn khỏi, từ đó hai chàng được gọi là “chàng Dài chàng Cộc”

Một năm ở vùng Thanh Oai – Chương Mỹ có hạn hán kéo dài. Hai ông bà nhờ hai người con đi cầu xin vua Thuỷ Tề làm mưa. Sau đó, cả vùng được trận mưa to, nhưng hai chàng rắn lại bị sét đánh chết, xác một chàng ở bãi Kim Bài thuộc Thanh Oai, còn xác một chàng ở bãi Ó Vực thuộc Chương Mỹ (cách Kim Bài khoảng 4 cây số). Dân hai làng lập miếu thờ và hàng năm cúng giỗ. Mấy năm sau ông Bõ bà Bõ già yếu rồi qua đời, được dân làng Kim Bài lập miếu thờ và cúng giỗ, nhưng một đêm mưa to gió lớn, ngôi mộ của ông Bõ lại trôi ngược lên làng Đại Từ, và dân làng này cũng lập miếu thờ, cúng giỗ. Từ đấy hai ông bà và hai chàng rắn thường hiển ứng âm phù cho cả vùng này tai qua nạn khỏi mỗi khi hạn hán, lụt lội, sâu bệnh… Dân trong vùng gọi các vị là “ông Cộc ông Dài” và “Thánh phụ Thánh mẫu”, rồi lập một ngôi đền thờ chung, gọi là đền hàng Tổng, ở địa phận bãi Kim Bài cũ. Những năm hạn hán thường tổ chức tế lễ và rước cầu đảo từ đền này.

Vì Kim Bài sau đó thuộc vào đất tổng Phương Trung, nên ngôi đền này là ngôi đền chung của cả Tổng. Tổng Phương Trung có tất cả 9 làng (Cát Động, Kim Bài, Kim Lâm, Văn Quán, Kim Thành, Kim Châu, Đôn Thư, Ngọc Liên, Phương Trung) nhưng riêng Phương Trung đã là một làng lớn gồm 7 làng nhỏ (“nhất làng nhất xã”) nên trên thực tế phải kể là 16 làng. Ngoài ra, khi tế lễ, rước cầu đảo, còn có nhiều làng ở lân cận Tổng này cũng tham gia (như Ó Vực, Đại Từ, Phụ Chính, Yên Nhân, v.v…), nên con số chính thức là 20 làng.

Lễ chính ở đền hàng Tổng 5 năm mới tổ chức một lần, nhưng khi có hạn hán kéo dài thì không kể định lệ, tế lễ và rước cầu đảo sẽ được tổ chức và tiến hành ngay. Cách thức như sau:

– Làng Phương Trung chuẩn bị một thuyền lớn, để đặt nhà, các kiệu cùng lễ vật lên trên, và tổ chức một đội kéo thuyền (ngược dòng nước).

– Làng Đôn Thư làm một nhà nhỏ lợp bằng lá sen. Nhà sẽ được đặt trên thuyền.

– Làng Văn Quán thì chuẩn bị dầu đèn, đuốc thắp đủ trong 3 đêm tế lễ.

– Hai làng Kim Bài, Cát Động làm hình nhân “Thánh phụ Thánh mẫu” và “ông Cộc ông Dài”

– Hai làng Yên Nhân, Phụ Chính cử người đeo mặt nạ làm trò vui và một gánh hát.

Các kiệu mang lễ vật từ làng mình rước đến đền hàng Tổng, khi đã đông đủ, ông chủ tế làng Kim Bài và các bồi tế (ở các làng khác) bắt đầu tế lễ. Tế lễ xong rước bốn kiệu ra sông Đáy, cùng nhà lá sen và lễ vật đặt trên thuyền, kéo ngược lên Đại Từ. Trong suốt chặng đường đi, trống rung cờ mở và các trò mua vui, múa hát tưng bừng. Khi thuyền kéo đến Đại Từ trước miếu ông Bõ thì dừng lại, làng Đại Từ ra đón. Ba bộ kiệu được rước lên, còn kiệu bà vẫn để trên thuyền. Tế lễ xong mới rước kiệu bà vào, rồi tế lễ tiếp. Khi tế lễ xong ở miếu ông Bõ thì tất cả lại rước xuống thuyền, rồi theo dòng xuôi về Kim Bài, rước vào đền hàng Tổng, tế lễ tiếp. Xong đâu đấy các làng mới ra về. Trong những ngày này các miếu thờ riêng bốn vị cũng đều mở cửa, để dân các làng đến cúng lễ.

Nghe các cụ trong Tổng Phương Trung cũ kể lại, thì các vị thần ở đền hàng Tổng rất linh thiêng, hễ tế lễ, rước cầu đảo là đều có mưa. Nhiều khi mưa xảy ra ngay khi đang rước.

Có một thể lệ bất di bất dịch được coi như tục hèm trong khi tế lễ: Trước và sau khi đọc văn tế đều phải dùng khánh để thỉnh, và dùng gươm để cầu: cắm gươm xuống đất sâu hay nông bao nhiêu là xin lượng mưa nhiều hay ít bấy nhiêu.

—o—

SỰ TÍCH VỢ RẮN & BỌC TRỨNG SINH 5 CON RẮN CỦA VUA THUỶ ĐẾ LÂM THAO

Trong các sự tích của vua Thuỷ Đế sông Thao với các bà vợ ở trần gian, trong các đứa con mang lốt rắn thì đứa con bị cộc đuôi sẽ ở lại trên trần gian với cha mẹ để phụng dưỡng cha nuôi, còn các đứa khác đi cai quản các vùng sông nước

– Tích làng La Phù : … Lại nói, khi ấy còn lại ông út Đệ Tam Thủy hầu, trị tại quê mẹ (tức xã La Phù) cùng ở với Phan Bà. Công lúc đó có nhiều biến hiện, đi du ngoạm ở vùng đất đai dân cư. Nhân dân hay gặp thấy. Hoặc biến thành hình rắn có mào hoa năm màu, thân vảy rực rỡ. Hoặc hiện thành một quan nhân tướng mạo đường đường, lẫm lẫm oai phong, đầu đội mũ ngọc, thân mặc áo gấm, giáp vàng. Hoặc gọi mưa đến, hoặc kêu gió tới. Nhân dân thường bị hại nhiều nên rất sợ. Hôm ấy (ngày 14 tháng 6) nhân dân làm lễ xin làm thần tử. Phan Bà đồng ý. Người dân bèn dựng lập một cung sở ở bên bờ sông, mời Phan Bà cùng ông đến ở trong cung đó. Khi ấy chỗ Phan Bà có bãi Trường Sa ở giữa sông. Ngày tháng qua Phan Bà thường đến trồng dâu gai để sinh sống. Phan Bà thường ngày qua sông đến bãi Tang Ma làm cỏ. Ông Rắn bèn theo mẹ cùng đi. Khi đi về qua sông không thấy có người đưa đò, bèn tự rẽ nước mà đi sang bãi. Một hôm ông biến thành một con rắn nhỏ nằm trong đám cỏ ở nơi bãi dâu gai. Phan Bà làm cỏ đúng nơi ông nằm, mới làm đứt mất một đoạn đuôi. Sau khi ông bị đứt mất đuôi, mẹ mới đặt tên là Cộc Công. Nhân dân thường dùng gọi tên vậy.

– Linh Uyên Đại vương ngọc phả, Theo bản khai 1938 của làng Ngọc Tháp, tổng Phú Thọ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ : Bà Thái phi của vua sông Thao có tính chỉ ăn chay, ăn hoa quả mà thôi. Một hôm trời mùa xuân trong lành, vạn cảnh tươi đẹp. Thái phi bỏ lốt rắn đi lên rừng chơi hái hoa, hái thuốc. Đến rừng làng Trung Hoàng (tức thuộc huyện Phù Ninh bây giờ) chợt rơi ra một bọc trứng 5 quả ở đấy. Làng ấy có một ông già không biết đi làm gì đến đất, nhặt lấy 5 quả trứng đem về luộc ăn. Đun lửa nửa ngày, lửa vẫn cháy, mà nước vẫn lạnh. Ông già lấy làm quái lạ, bưng cả nồi đem để giữa sân. Được 3 ngày, nở ra 5 con rắn. Gáitrai già trẻ ở làng ấy đến xem như hội. Thấy thế đều bảo ông già bưng ra ngoài vực sâu thả xuống đấy. 5 con rắn ấy mỗi ngày một lớn lên. Ông già thời thường lên núi hái củi qua đầm đó, xuống rửa ráy ở đấy. 5 con rắn cảm ơn dưỡng dục đều cất tất cả lên quấn quít quanh cả mình ông già để mừng. Ông già vô ý lấy con dao phát bờ khoắng một cái, đứt đuôi một con. 5 con rắn quấn quít lấy cái đuôi khóc mà nói rằng: Chúng ta là giống rồng, trời định cho ta, mỗi người làm vua một phương. Nay sự tình như thế này thì không thể được quây quần lâu trong vực này nữa. Thế là các con rắn Đệ nhất, Đệ nhị ra ở Thao giang. Đệ tam, Đệ ngũ ra ở sông Lô. Đệ tứ mất đuôi ở lại vực Trung, để báo đức cho ông già. Người anh cả Đệ nhất làm vua ở tại ghềnh đá làng Ngọc Tháp. Người Thứ hai ở tại ghềnh đá làng Ba Triệu. 

—o—

SỰ TÍCH THÁNH TAM GIANG (TRƯƠNG HỐNG – TRƯƠNG HÁT) VÙNG SÔNG CẦU

Sự tích thánh Tam Giang được sinh ra trong bọc 5 trứng, vùng sông Cầu cũng rất giống với sự tích thánh Tam Giang vùng sông Thao, sông Lô, sông Đà. Trương Hống và Trương Hát vẫn là cặp đôi ông Cộc và ông Dài.

Theo cuốn thần phả hiện được lưu giữ tại đền Vân Mẫu, thôn Hai Vân, phường Vân Dương, thành phố Bắc Ninh: Người con gái họ Phùng, tên hiệu là Từ Nhan, sinh năm Quý Hợi 483 thời Nam Bắc Triều. Năm Phùng Từ Nhan 18 tuổi, vào đêm rằm tháng 11 năm Canh Thìn (500), nàng nằm chiêm bao thấy Thần Long quấn mình trên sông Lục Đầu, sau đó nàng mang thai. Sau 14 tháng mang thai, ngày 5 tháng 1 năm Nhâm Ngọ (502) Phùng Từ Nhan lên chùa lễ phật trở về đến xứ Cửa Cữu, làng Vân Mẫu thì trở dạ, sinh ra một bọc năm con là Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy, và người con gái là Trương Đạm Nương. Năm anh em sinh ngày 15, tháng Giêng, năm Nhâm Ngọ (502), người làng Vân Mẫu, xã Vân Mẫu, huyện Quế Dương, quận Vũ Ninh, xứ Kinh Bắc (nay là thôn Hai Vân, phường Vân Dương, thành phố Bắc Ninh). M

Do là con của thiên thần nên người mẹ lấy họ Trương là họ của Ngọc Hoàng Thượng Đế để đặt cho các con và hết lòng chăm lo các con ăn học. Năm anh em là học trò của Tiên sinh Lã Thị người hương Chu Minh, lộ Bắc Giang (tức phường Hương Mạc, thành phố Từ Sơn ngày nay). Anh em học đến đâu lầu thông kinh sử đến đấy, ngày ngày chăm đọc binh thư, siêng rèn võ nghệ, nên đều là những người tinh thông văn võ. Khi anh em 17 tuổi thì mẹ mất (ngày 15 tháng 4 âm lịch năm Kỷ Hợi 519) và 5 anh em đã táng mẹ tại xứ đồng Bãi Cả, hiếu thảo thờ mẹ 3 năm.

Năm 545 nhà Lương, đời vua Đại Đồng năm thứ bảy, cử tướng Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem quân sang xâm lược Việt Nam. Lý Nam Đế đem quân chặn đánh nhưng vì quân ít không cản được giặc phải rút về miền núi động Khuất Lão (Tam Nông, Phú Thọ) trao quyền cho tướng Triệu Quang Phục, rồi mất tại đó. Triệu Quang Phục đưa quân về đầm Dạ Trạch (Hưng Yên) đánh phục kích, đồng thời truyền hịch trong dân gian tìm người tài giỏi đánh giặc giúp nước.

Hai ông Trương Hống, Trương Hát nghe có hịch chiêu tài, anh em bàn nhau xin lệnh thầy, dụng kế lập thân, về quê mộ quân để đi giúp nước. Sau này các ông đến địa phận làng Tiên Tảo, huyện Kim Hoa, phủ Đa Phúc, lộ Bắc Giang thấy đất có thế ỷ dốc, tiến thoái lưỡng tiện có thể dụng binh liền cho quân hạ trại, làm tờ chiêu dụ nhân dân. Tờ rằng: “Đất nước Vạn Xuân ta đang thanh bình, càn nguyên hanh thái, bỗng đâu giặc Lương xâm lấn, xã tắc đảo điên, muôn dân khốn khổ. Bọn Hống-Hát chúng tôi xuất thân con nhà lam lũ, được học võ nghệ, có chút mưu cơ, dám đem sức lực người bản xứ, dấy binh cuốc cầy, địch cùng lang sói ngoại bang, giúp Triệu Việt Vương giữ an bờ cõi, dám mong chư vị bàn dân hưởng ứng nghĩa quân thì lấy làm may lắm”. Phụ lão làng ấy tiếp tờ, thấy các ông dung dị khác thường, uy nghi đường bệ, thi đua nhau cho con cháu đi theo làm quân sĩ.

Triệu Quang Phục liệu thế không thể dùng sức thắng được Trần Bá Tiên, bèn lui về giữ đầm Dạ Trạch ở huyện Chu Diên, là nơi cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín để cố thủ. Ban ngày, Triệu Quang Phục ra lệnh tuyệt không để khói lửa và dấu người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của quân Bá Tiên, giết và bắt sống rất nhiều, lấy được lương thực để làm kế cầm cự lâu dài. Bá Tiên đuổi theo hút mà đánh, nhưng không thể tiến sâu vào trong đầm lầy được. Năm 548, trong lúc đang giao tranh thì nước Lương có loạn, Trần Bá Tiên được lệnh mang quân về cứu Vua Lương.Triệu Quang Phục sau đó lên ngôi vua.

Được tin Triệu Quang Phục lên ngôi vua, Lý Phật Tử (người họ Lý Nam Đế) đã đem quân đánh lại nhưng không thắng, bèn dùng kế cầu hôn gả con. Trương Hống và Trương Hát đã can Triệu Việt Vương đừng gả Cảo Nương cho Nhã Lang. Nhưng Triệu Quang Phục không nghe, mắc mưu của Lý Phật Tử rồi bị đánh úp. Lý Phật Tử lên ngôi vua, tự xưng là Hậu Lý Nam Đế. Biết rằng Trương Hống, Trương Hát là hai vị tướng tài giỏi bèn cho người mời ra làm quan. Song các ông nhất lòng trung quân, không theo Lý Phật Tử, thưa lại rằng: “Tôi trung chẳng thờ hai vua, gái trinh chẳng đổi hai chồng, huống hồ ngươi là người bội nghĩa mà còn muốn khuất cái tiết bất di dịch này ư?”. Biết không thể khuất phục được, Lý Phật Tử lệnh truy bắt các ông khắp nơi. Các ông trốn vào ở núi Phù Long; Nam Đế nhiều lần cho người đến truy nã không được, mới treo ngàn vàng cầu người bắt. Các ông bàn nhau cùng đem gia quyến xuôi dòng sông Cầu, uống thuốc độc để giữ trọn tấm lòng trung với vua. Ngọc Hoàng Thượng Đế phong Trương Hống, Trương Hát làm thần sông. Nhân dân dọc theo sông Cầu và các nơi các ông từng đóng quân đánh giặc đã vô cùng khâm phục, thương tiếc, lập đền thờ làm Thần.

—o—

SỰ TÍCH KHÚ CON THẰNG CỤT TRONG CỔ TÍCH MƯỜNG

—o—

SỰ TÍCH ÔNG CỘC ÔNG DÀI Ở CÁC LÀNG XÃ

Sự tích rắn thần cụt đuôi ở làng Yên Phú (Thanh Trì, Hà Nội) kể về 2 vị thủy thần xuất thế là Trung Vũ và Đài Liệu. Hai vị đã có công cầu mưa cứu hạn, được nhân dân trong vùng Thanh Trì hết sức kính phục. Sự tích truyền khẩu ở Yên Phú còn kể, khi đê ở Giầy Kẻ bị sạt vỡ, 2 vị đã hóa thân thành 2 ông rắn nằm ngăn nước để dân đắp, hộ được đê. Lúc hộ đê một ông bị đứt một tí đuôi, nên có hèm là Cụt.

https://dsvh.gov.vn/Upload/files/Tap%20chi%20DSVH/So%2042/4204_Ve%20tuc%20tho%20ran%20qua%20huyen%20thoai%20ong%20Cut%20ong%20Dai%20o%20chau%20tho%20song%20Hong.pdf

—o—o—o—

RẮN BA ĐẦU CHÍN ĐUÔI

Trong đạo Mẫu có vị thần rắn ba đầu chín đuôi gọi là Tam Đầu Cửu Vĩ. Đây là thú cưỡi của một số vị Quan như Quan Lớn Đệ Tam, Quan Hoàng Cả…

Tam đầu Cửu vĩ Long Vương là vị thần có được thờ cúng là thành hoàng ở một số nơi, như ở đình Nam Dư Hạ ở quận Hoàng Mai, Hà Nội.

—o—o—o—

RẮN NAGA NHIỀU ĐẦU

– Ở đền thờ và chùa Khơ me

– Ở đền thờ và tháp của người Chăm

– Ở một số chùa và biểu tương Phật giáo

—o—o—o—

Ý NGHĨA CỦA ÔNG CỘC ÔNG DÀI & THẦN RẮN NHIỀU ĐẦU NHIỀU ĐUÔI

Rắn là hình tượng gắn với sông nước, mà mang tính lưỡng tính âm dương, trong đó có lưỡng tính sóng hạt

Rắn là hiện thân của vợ và con sinh sống trên cạn của vua cha Long Vương, mà thường có hình dáng rồng sống ở sông biển.

– Rắn cụt đuôi thường gọi là ông Cộc, ông Cụt, ông Hèm … ứng với trạng thái hạt, mang tính định trong thổ, trường trụ lại trên cạn với mẹ hoặc người nuôi dưỡng trên đất hoăc giữa các cấu trúc cạn như bờ đê …

– Rắn cặp với rắn cụt đuôi là anh em của rắn cụt đuôi, có thể là một ông Dài, hoặc nhiều anh em, ứng với trang thái sóng, mang tính vận hành, thường về cai quản các dòng sông và các cửa sông theo lệnh của vua cha Long Vương

Trong biểu tượng rắn ba đầu chín đuôi, trạng thái đất nước được hợp nhất

– Đầu tượng trưng cho trạng thái hạt – ông Cộc

– Đuôi tượng trưng cho trạng thái sóng – ông Dài

Các biểu tượng rắn thần của người Chăm, người Khơ me, người dân tộc thiểu sổ của nước ta đều là các trang thái sóng hạt cân bằng hoặc hat nằm trong sóng.

Trạng thái này phân tách đất (hạt) và nước (sóng) có từ đầu thời kỳ Hùng Vương

– 50 người con theo mẹ Âu Cơ lên núi – ông Cộc

– 50 người con theo cha xuống biển – ông Dài

Hình tượng Phục Hy và Nữ Oa quấn vào nhau, phần trên là đầu thân người và phần dưới là rắn, phần trời là ông Cộc và bà Cộc, còn phần đuôi là ông Dài và bà Dài.

Trạng thái này phân tách đất (hạt) và nước (sóng) trở nên trầm trọng vào thời kỳ Công Nguyên, dẫn đến kết thúc thời kỳ Hùng Vương, là thời kỳ sóng hạt còn khá cân bằng. Sơn Tinh (trạng thái hạt – ông Cộc) đánh nhau với Thuỷ tinh (trạng thái sóng – ông Dài). Có thể nói bản chất của thời kỳ Công Nguyên là trạng thái hạt, mà báo hiệu bằng sự kiện Thuỷ Tinh thua Sơn Tinh vào thời vua Hùng Vương 18. Trước khi có trận chiến Sơn Tinh – Thuỷ Tinh, thì vị thần Sơn Tinh – ông Cộc trao cho Tản Viên Gậy thần và Long Vương (ứng với Thuỷ Tinh – ông Dài) trao cho Tản Viên sách ước, đền ơn cứu con trai minh hiện thân làm rắn lên bờ gặp nạn. Tản Viên không phải là Sơn Tinh thắng Thuỷ Tinh, cưới công chúa, mà Tản Viên chính là người giữ khoá cân bằng hai trạng thái này, mà có trước cuộc chiến Sơn Tinh – Thuỷ Tinh. Cuộc chiến Sơn Tinh – Thuỷ Tinh là cuộc chiến chuyển đổi văn minh, như là sự kiện chúa Jesus bị đóng đinh vậy. La Mã đại điện cho tính hạt còn chúa Jesus đai diện cho tính sóng. Đây là sự kiện toàn cầu.

Sau đó có Hai Bà Trưng thì bà Trưng Trắc vẫn là bà Cộc và bà Trưng Nhị vãn là bà Dài. Đó là lý do hai bà luôn được thờ cùng nhau.

 

 

Chia sẻ:
Scroll to Top