![]()
TẾT TRÙNG DƯƠNG
Trùng dương là 2 trạng thái dương trùng nhau, ví dụ ông Công ông Táo, Vua và Chúa, Mặt trời và Hậu nghệ, Tùng và Trúc, Xung & Đột. Khi có hai năng lượng dương trùng nhau, bắt buộc hai năng lượng âm đối xứng với hai năng lượng dương này cũng phải trùng nhau, nghĩa là đạt được lưỡng nghi âm dương trọn vẹn, lúc này xuất hiện tứ tượng và vận hành âm dương bát quái.
Tết Trùng dương cũng là Tết cửu trùng. Cửu trùng là trạng thái trùng khớp đa tầng không gian và thời gian, đa cảnh giới và đa chủng loài, nhờ Mẫu Cửu trùng thiên.
Tết Trùng dương còn gọi là Cửu Nhật là chín Mặt trời, hay Mặt trời Trùng Dương. Tết này cũng được gọi là Cửu Nguyệt, vì nhật nguyệt là cặp đôi âm dương.
Người ta bảo ngày mồng 9 tháng 9 là Mặt trăng trùng Mặt trời, Thái âm trùng Thái dương. Cho nên Hoa cúc thường được coi là biểu tượng của Tết Trùng dương và thường được gắn với chín Mặt trời ở trạng thái Trùng dương, trạng thái xoay vòng của cung Hoàng đạo – Mặt trời ở giữa và Bầu trời bao bọc, chứ không phải là Mặt trời thái dương hệ (Sun).
HOA CÚC
Trong bộ tứ quý Tùng Cúc Trúc Mai, Tùng là dương Công, Trúc là dương Táo, Tùng trúc đại diện cho trạng thái Trùng dương. Hoa cúc đại diện cho trạng thái âm mà kết hợp được hai tính dương của Trùng dương. Hoa mai đại diện cho trạng thái âm mà phân tách được hai tính dương ra thành Thái dương.
Hoa cúc là biểu tượng vòng xoay của cung hoàng đạo mà tính từ Trái đất. Hoa cúc ở chính là biểu tượng của Trái đất khai hoa để kết quả.
HOA CÚC – MẶT TRỜI XOAY VẦN TRONG CA DAO
Bánh canh trắng, bánh canh ngọt, rượu bọt bỏ ve
Ai kêu tôi đó, dạ có tôi đây
Bốn mùa bông cúc vần xoay
Để xem trời định duyên này về đâu
Bánh canh trắng, bánh canh ngọt, rượu bọt đầy ve
Bao giờ mặt trời hết quay
Thì qua với bậu mới dứt dây cang thường
HOA CÚC & TRÙNG DƯƠNG TRONG VĂN THƠ THỜI LÝ
– VIÊN CHIẾU : Viên Chiếu, tên thật là Mai Trực (999 – 1090) là một tu sĩ, nhà lãnh đạo Phật giáo Đại Việt thời Lý. Ông một trong 7 vị thiền sư thuộc thế hệ thứ 7 dòng Vô Ngôn Thông thuộc Thiền tông. Ông là người Long Đàm, Phúc Đường, nay là huyện Thanh Trì, Hà Nội và là con người anh của thái hậu Linh Cảm (mẹ của vua Lý Thánh Tông). Sau khi chứng đạo, ông làm trụ trì chùa Cát Tường, kinh đô Thăng Long, được vua Lý Nhân Tông rất nể trọng. Ngày này, tư liệu tiểu sử duy nhất từ thời Lý-Trần còn sót lại về ông nằm trong sách Thiền uyển tập anh.
Có vị tăng hỏi: “Phật với Thánh nghĩa ấy thế nào?”
Sư đáp:
Ly hạ trùng dương cúc,
Chi đầu thục khí oanh.
Dịch thơ:
Trùng dương cúc nở dưới rào
Trên cành oanh hót thanh tao dịu dàng.
Sư đáp:
Bất thận thủy bàn kình mãn khứ
Nhất tao tha điệt hối hà chi.
Dịch thơ:
Bưng thau nước đầy không chú ý
Một lúc sẩy chân hối ích gì.
Tăng hỏi: “Tất cả chúng sanh từ đâu mà đến? Sau khi chết đi về đâu?”
Sư đáp:
Manh qui xuyên thạch bích
Ba miết thướng cao sơn.
Dịch thơ:
Rùa mù dùi vách đá
Trạnh què trèo núi cao
Tăng hỏi: “Tâm và pháp cả hai đều quên, tánh tức chân; thế nào là chân?”
Sư đáp:
Vũ trích nham hoa thần nữ lệ
Phong xao đình trúc Bá Nha cầm.
Dịch thơ:
Hoa núi mưa sa, thần nữ khóc
Tre sân gió thổi, Bá Nha đờn.
HOA CÚC & TRÙNG DƯƠNG TRONG VĂN THƠ THỜI TRẦN
Thời Trần đạt được trạng thái Trùng dương, cho nên hoa cúc đi vào thơ văn thời Trần.
– THIỀN SƯ HUYỀN QUANG
Huyền Quang (1254-1334), thế danh là Lý Đạo Tái. Ông là người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang (nay thuộc xã Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Đương thời, ông học giỏi, đỗ cả thi hương, thi hội và thi đình. Đời vua Trần Thánh Tông, ông trở thành đệ nhất giáp tiến sĩ (trạng nguyên) khoa thi năm 1272 (có tài liệu nói năm 1274). Trước đó cha mẹ đã định hôn sự cho ông, tuy chưa cưới, và ngay sau khi đỗ trạng nguyên, vua lại muốn gả công chúa cho ông, nhưng ông vẫn nhất quyết từ chối tất cả.
Sau đó ông làm việc trong Viện Nội Hàn của triều đình, phụng mệnh tiếp đón các sứ Bắc triều. Với tài năng văn chương xuất chúng và tư duy ngôn ngữ nhạy bén, ông đã khiến các sứ thần Trung Hoa phải nể phục mà tôn trọng đất Đại Việt.
Trong một lần ông theo vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm nghe thiền sư Pháp Loa thuyết pháp khiến ông như tỉnh ngộvà muốn xuất gia tu hành. Đến năm Hưng Long thứ 13 (1305), ông xuất gia thọ giới tại chùa Vĩnh Nghiêm, theo làm thị giả của Điều Ngự, được mang pháp hiệu là Huyền Quang. Năm Hưng Long thứ 17 (1309), tuân theo di huấn của Điều Ngự, Huyền Quang theo hầu thiền sư Pháp Loa.
Đến năm Đại Khánh thứ 4 (1317), ông được Nhị tổ Pháp Loa truyền y của Trúc Lâm Đại Sĩ và tâm kệ. Sau khi Pháp Loa viên tịch (1330), ông kế thừa và trở thành vị tổ thứ 3 của Thiền phái Trúc Lâm. Lúc bấy giờ tuổi đã cao nên ông đã giao phó lại trọng trách cho Quốc sư An Tâm và trở về trụ trì ở Thanh Mai Sơn sáu năm, sau dời sang Côn Sơn giáo hóa đồ chúng. Ngày 23 tháng giêng năm Giáp Tuất (1334), đời vua Trần Hiến Tông, thiền sư viên tịch tại đây, thọ 80 tuổi. Thượng hoàng Trần Minh Tông sắc thụy là Trúc Lâm Thiền Sư Đệ Tam Đại, đặc phong Từ Pháp Huyền Quang Tôn Giả.
Như vậy ông cũng chính là vị tổ cuối cùng của dòng thiền này. Người đời sau gọi chung cho ba vị tổ sáng lập thiền phái là Trúc Lâm Tam Tổ.
Bên cạnh nghiệp tu, Huyền Quang còn được xem là một thi gia lớn của thời Trần. Ông có 6 bài thơ về hoa cúc trong đó bài thứ ba nói về Tết Trùng dương có câu “thấy hoa cúc nở là Tết Trùng Dương”
1. Cúc hoa kì nhất
Phiên âm
Tùng thanh Tưởng Hủ tiên sinh kính
Mai cảnh Tây Hồ xử sĩ gia
Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp
Cố viên tùy xứ thổ hoàng hoa.
Dịch thơ
Ngõ nhà Tưởng Hủ thông reo
Tây Hồ mai cảnh cũng theo xuân về
Tình riêng, khí phách không thề
Hoa vàng nơi ấy quay về hòa chung.
Dịch nghĩa
Tiếng thông reo ở đầu ngõ nhà
Tưởng Hủ Cảnh hoa mai của nhà xử sĩ Tây Hồ
Không cùng nghĩa khí, khó mà hoà hợp tạm bợ được
Vườn cũ nơi nơi đã nở hoa vàng.
2. Cúc hoa kì nhị
Phiên âm
Đại giang vô mộng hoán khô tràng
Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang
Lão khứ sầu thu ngâm vị ổn
Thi biều thực vị cúc hoa mang.
Dịch thơ
Sông sâu đâu thể rửa lòng
Hoa mai trăm vịnh mà trông xin nhường
Thu về già lại xót thương
Túi thơ hoa cúc còn vương chưa làm.
Dịch nghĩa
Không mơ lấy nước sông lớn rửa mát lòng khô héo
Hoa mai từng được trăm bài vịnh cũng phải xin nhường
Già rồi, lại thấy thu buồn mà làm thơ chưa ổn
Nhưng túi thơ, thật là vì hoa cúc mà bận lòng.
3. Cúc hoa kì tam
Phiên âm
Vong thân, vong thế, dĩ đô vong
Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật
Cúc hoa khai xứ tức Trùng Dương
Dịch thơ
Quên thân quên cả sự đời
Rừng sâu mát lạnh khắp nơi người ngồi
Tháng ngày chẳng biết, ngừng trôi
Thấy hoa cúc nở đến rồi Trùng Dương
Dịch nghĩa
Quên thân, quên đời, quên tất cả
Ngồi lâu vắng lặng, mát lạnh cả giường
Cuối năm trong núi không rõ ngày tháng
Thấy hoa cúc nở biết là tiết Trùng Dương.
4. Cúc hoa kì tứ
Phiên âm
Niên niên hòa lộ hướng thu khai
Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ
Mãn đầu tùy đáo sáp quy lai.
Dịch thơ
Chờ thu chẳng ngại sương rơi
Trăng thanh cảnh vắng thảnh thơi tấc lòng
Diệu kì, ai có tỏ không?
Nơi đâu hoa cúc cũng mong cầm về.
Dịch nghĩa
Năm tháng pha sương hướng vào mùa thu để nở
Ngắm cảnh trăng thanh thỏa một tấc lòng
Chịu cười vì người không hiểu, hoa thật huyền diệu
Tới nơi đâu, thấy hoa cũng hái cài đầu mang về.
5. Cúc hoa kì ngũ
Phiên âm
Hoa tại trung đình nhân tại lâu
Phần hương độc tọa tự vong ưu
Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu
Dịch thơ
Người trên hoa dưới lầu cao
Ngồi trong hương khói làm sao ưu phiền!
Ngưới với hoa, đôi bạn hiền
Trăm hoa duy cúc ở miền ngôi cao.
Dịch nghĩa
Hoa ở dưới sân, người ở trên lầu
Thắp hương ngồi nghĩ, thấy hết ưu phiền
Người với hoa hoàn toàn không ganh tị
Trong các loài hoa thì cúc đứng đầu.
6. Cúc hoa kì lục
Xuân lai hoàng bạch các phương phi
Ái diễm liên hương diệc tự thì
Biến giới phồn hoa toàn trụy địa
Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly
Dịch thơ
Xuân về vàng trắng đầy cây
Hoa thơm hương ngọt lúc này càng xinh
Khi bao hoa rụng hoa tàn
Bờ đông bông cúc không màng ngày qua.
Dịch nghĩa
Xuân đến hoa vàng, hoa trắng đều thơm ngát
Yêu vẻ đẹp, thích hương thơm, hoa lại nở đúng thời
Khi các loài hoa, tất cả đã rụng
Thì héo sau cùng vẫn là hoa cúc ở giậu đông.
– TRƯƠNG HÁN SIÊU
Trương Hán Siêu (? – 1354) tên tự là Thăng Phủ hoặc Thăng Am, hiệu Đôn Tẩu) là một vị quan dưới 4 đời vua nhà Trần, từng giữ các chức: Hàn lâm học sĩ, Hành khiển, Hữu ty lang trung, Tả ty lang trung, Thượng thư; khi mất ông được 2 vua truy tặng chức Thái bảo rồi Thái phó. Ông là một danh nhân văn hóa lớn đời Trần, kiệt tác văn chương nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông là bài Bạch Đằng giang phú (Phú sông Bạch Đằng) – một áng thiên cổ hùng văn rất được lưu truyền.
Trương Hán Siêu và Phạm Ngũ Lão chính là hai nhân tài bên cạnh Trần Hưng Đạo. Trương Hán Siêu chính là người cố vấn chính của Trần Hưng Đạo, nhưng dấu mặt khi Trần Ích Tắc chưa trốn theo quân Nguyên. Sau khi Trần Ích Tắc bại lộ trốn theo quân Nguyên thì Trương Hán Siêu ra mặt công khai ở chung với Trần Hưng Đạo để ngày đêm bàn việc quân. Trương Hán Siêu là người rất giỏi võ nghệ, giỏi âm nhạc. Kế hoạch lấy không đánh có, lấy nhu thắng cương, vườn không nhà trống, lấy ít đánh nhiều được Siêu phát triển thành đỉnh cao hoàn hảo, phổ biến đến tận làng xã, tập cho dân làng biết làm theo hiệu lệnh từ trung ương một cách nhanh chóng.
Cúc hoa bách vịnh kỳ 1
Vũ dư khai phố di căn chủng,
Sương hậu tuần ly trích nhị thu.
Mạc đạo u nhân nhàn lãn tán,
Nhất niên mang xứ thị thâm thu.
Dịch nghĩa
Mưa tạnh, mở cửa vườn đánh gốc trồng,
Sau khi sương xuống, dạo quanh giậu nhặt nhi hoa.
Chớ bảo người ở ẩn vốn lười nhác,
Lúc bận rộn nhất trong năm là cuối mùa thu.
Cúc hoa bách vịnh kỳ 2
Nhất thu đa vũ hựu đa phong,
Khởi ý thu hoa thượng mãn tùng.
Ưng thị thiên công liên lãnh lạc,
Cố lưu hàn nhị bạn suy ông.
Dịch nghĩa
Cả mùa thu nhiều mưa lại nhiều gió,
Đâu ngờ hoa thu vẫn đầy khóm.
Đúng là thợ trời thương kẻ quạnh hiu,
Nên dành lại loài hoa chịu được rét để làm bạn với ông già ốm yếu.
Cúc hoa bách vịnh kỳ 3
Trùng dương thời tiết kim triêu thị,
Cố quốc hoàng hoa khai vị khai.
Khước ức cầm tôn tiền nhật nhã,
Kỷ hồi tao thủ phú quy lai.
Dịch nghĩa
Sáng nay là tiết trùng dương.
Không hiểu hoa vàng nơi quê cũ đã nở chưa?
Lại nhớ tới thú vui tao nhã uống rượu gảy đàn ngày trước,
Mấy lần gãi đầu làm bài thơ “quy lai”.
– TRẦN KHẮC CHUNG
Trần Khắc Chung (1247 – 1330), biểu tự Văn Tiết, là một nhân vật chính trị, quan viên cao cấp đời nhà Trần. Ông trải qua các triều Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông, thăng đến Thiếu bảo, hàm Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, tức Tể tướng đương quyền.
Trần Khắc Chung có một bộ thơ vịnh hoa cúc. Bài 2 mượn Tết Trùng dương và hoa cúc để làm thơ kêu gọi mọi người phò vua giúp nước đánh đuổi quân giặc thay vì hưởng an nhàn.
Vịnh cúc kỳ 2
Trùng dương trích nhuỵ Đào nhương tuý,
Thu tịch xan anh Khuất ái hương.
Nhị lão phong lưu thiên tải viễn,
Thiên giao cúc ẩn xuất thừa đương.
Dịch nghĩa
Tiết trùng dương hái nhị, họ Đào ủ men say,
Chiếu thu ngậm cánh hoa, họ khuất yêu hương ngát.
Phong độ hai ông già đã nghìn năm xa rồi,
Nay trời trao chức, hoa cúc ẩn dật phải ra gánh vác.
Trùng cửu hái hoa, Đào cất rượu,
Chiều thu nếm nhuỵ, Khuất yêu hương.
Phong lưu hai vị nghìn năm khuất,
Cúc ẩn trời trao, hãy đảm đương.
HOA CÚC & TRÙNG DƯƠNG TRONG VĂN THƠ THỜI LÊ TRỞ VỀ SAU
– PHAN HUY ÍCH
Phan Huy Ích trong thời gian từ 1796, viết Cúc Thu Bách Vịnh gồm 50 bài thơ Đường luật không đề tựa. Điều đáng quý là Phan Huy Ích viết những lời nguyên dẫn từng bài thơ, cho ta biết cuộc trao đổi của hai người anh và em rể, Phan Huy Ích là học trò và con rể cụ Ngô Thì Sĩ nên gọi Ngô Thì Nhậm là ‘thai huynh’, hai nhà tư tưởng lớn Việt Nam, một thiền sư, một đạo sĩ thật thú vị, điều này hiếm hoi trong lịch sử Việt Nam.
Chinh tứ du du nhật dịch trường,
Nhân gia kim cúc giới Trùng dương.
Tam thì ky hoạn ngu tuyền bái,
Thiên lý lai thư báo lộng chương.
Giai tiết sổ bôi tài mính đính,
Cố giao bán diện các thông mang.
Ân cần ngữ tống triều thiên khách,
Sảnh viện phong lưu thí điệt thường.
Dịch nghĩa
Cưỡi ngựa đi đường xa, lòng khách những man mác,
Tết Trùng dương đến, mọi nhà đã nở cúc vàng.
Ba mùa làm quan xa, nay mừng được trở về,
Nghìn dặm thư gửi đến, báo tin đẻ con trai.
Vài chén rượu ngày tết vừa mới chếnh choáng,
Bạn cũ gặp mặt chốc lát, đã vội chia tay.
Mấy lời ân cần tiễn đưa khách vào chầu vua,
Ở nơi sảnh viện sẽ luôn được nếm mùi phong lưu.
Hải Phái họ Đoàn tức Đoàn Nguyễn Tuấn.
– NGUYỄN KHUYẾN : Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến, tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Quê nội của ông ở làng Vị Hạ (tục gọi là làng Và), xã Yên Đổ nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ.
Kỷ Sửu trùng dương kỳ 1
Phong vũ tiêu tiêu cửu nguyệt thiên,
Sơn hà cử mục tối kham liên.
Tiểu trì lục trướng nãi như thử,
Khứ tuế hoàng hoa thù bất nhiên.
Liễu diệp thuỳ thanh quang thấu nhật,
Trúc ly tích thuý mộ phù yên.
Cận lai bất tác đăng cao hứng,
Tuý ngoạ hàn song bão úng miên.
Dịch nghĩa
Trời tháng chín tiếng gió mưa dào dạt
Trông vời non sông nghĩ rất đáng thương
Trong ao nhỏ nước xanh dâng lên như vậy
Cảnh hoa vàng năm ngoái đã khác hẳn rồi
Chồi liễu rú lá xanh có ánh mặt trời xuyên qua
Giậu tre um mầu biếc làn khói chiều bao phủ
Gần đây không có hào hứng lên chơi núi
Chỉ say nằm bên cửa sổ vắng ôm vò rượu mà ngủ
Kỷ Sửu trùng dương kỳ 2
Trùng dương hà xứ bất tê phan,
Ẩn kỷ thiên dung nhất lão nhàn.
Hoa diệc ái tàn khai vị đắc,
Tửu nhân thị ẩm tích thành khan.
Tạc tiêu thậm vũ thuỷ khuy hạng,
Thử dạ vô vân nguyệt thướng sơn.
Bệnh nhãn mông lung thừa tuý vọng,
Hàn yên sơ ảnh hữu vô gian.
Dịch nghĩa
Tiết trùng dương không nơi nào người ta không trèo núi
Riêng một mình lão ngồi tựa ghế thảnh thơi
Hoa cũng tiếc phải tàn nên chưa hoa nào chịu nở
Rượu vì nghiện ngập phải dè xẻn mà thành ra keo
Đêm trước mưa nhiều nước ngập nghé ngoài ngõ
Tối nay mây quang trăng nhô lên đầu núi
Mắt đau trong lúc say trong chỉ lờ mờ
Khói nhạt bóng mờ trông như có như không.
– HÀN MẶC TỬ : Tử hay Hàn Mạc Tử (22 tháng 9 năm 1912 – 11 tháng 11 năm 1940), là một nhà thơ người Việt Nam. Là người khởi xướng Trường thơ Loạn và cũng là người tiên phong của dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam,[1] ông còn có những bút danh khác trong sự nghiệp gồm Lệ Thanh, Phong Trần và Minh Duệ Thị.
HOA CÚC & TRÙNG DƯƠNG TRONG VĂN THƠ ĐỜI ĐƯỜNG
– VƯƠNG BỘT : Vương Bột (650–676), tự Tử An, người Long Môn, Giáng Châu (ngày nay là Hà Tân, Sơn Tây) thời nhà Đường. Vương Bột được xem là một trong “Sơ Đường tứ kiệt” (bốn nhà thơ kiệt xuất giai đoạn đầu của nhà Đường), 3 nhà thơ còn lại là: Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân và Lạc Tân Vương.
Cửu nhật
Cửu nhật trùng dương tiết,
Khai môn hữu cúc hoa.
Bất tri lai tống tửu,
Nhược cá thị Đào gia.
Đào Gia : Nhà riêng của Đào Tiềm (365-427) đời Tấn, yêu hoa cúc nổi tiếng. Đào Tiềm từ quan sống ẩn dật nghèo đói cho tới mãn đời. Có năm vào tiết trùng dương, ông ngồi thưởng hoa cúc trồng bên hàng rào nhà, không có rượu uống, hàng xóm thấy vậy, mang rượu qua uống với ông.
Dịch nghĩa
Tiết trùng dương ngày mồng chín,
Mở cửa ra thấy có hoa cúc nở.
Không biết có ai cho rượu mình không.
Giống như nhà thơ họ Đào.
– ĐỖ PHỦ : Đỗ Phủ (712 – 770) là một nhà thơ Trung Quốc nổi bật thời kì nhà Đường. Cùng với Lý Bạch, ông được coi là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất của lịch sử văn học Trung Quốc.
Cửu nhật đăng Tử Châu thành kỳ 2
Khách tâm kinh mộ tự,
Tân nhạn há Tương Châu.
Cộng thưởng trùng dương tiết,
Ngôn tầm Hý mã du.
Hồ phong thu thú liễu,
Giang vũ ám sơn lâu.
Thả chước đông ly cúc,
Liêu khư Nam quốc sầu.
Dịch nghĩa
Lòng khách rất e ngại lúc cuối năm,
Nhạn xa từ phía bắc tớ ghé xuống bãi sông xanh.
Cùng hưởng tiết trùng dương,
Nói là đi tìm cảnh đẹp mà chơi.
Gió hồ thổi liễu bên đồn canh,
Mưa sông làm mờ căn lầu trên núi.
Định thử xem cúc bên dậu đông,
Liệu có giải được nỗi buồn nơi phương nam này không.
– LÝ BẠCH :
Cửu nguyệt thập nhật tức sự
Tạc nhật đăng cao bãi,
Kim triêu cánh cử thương.
Cúc hoa hà thái khổ,
Tao thử lưỡng trùng dương.
Dịch nghĩa
Hôm qua lên cao uống rượu cúc xong rồi,
Sáng nay còn nâng chén uống nữa.
Sao hoa cúc phải chịu quá khổ thế này,
Như vậy là bị tới hai lần lễ trùng dương.
Ngày 9 tháng 9 là dịp tiết trùng dương bên Trung Hoa. Trong ngày này, mọi người giắt lá cây thù du trong mình, lên cao, uống rượu cúc với nhau. Họ cho rằng làm như thế để được may mắn. Ngày hôm sau, tức 10 tháng 9, vẫn có nơi còn làm như thế. Tác giả làm bài này tỏ ý mình.
– THÔI QUỐC PHỤ : người Ngô Quận, sống khoảng năm Khai Nguyên đời Đường.
Cửu nhật
Giang biên phong lạc cúc hoa hoàng,
Thiếu trưởng đăng cao nhất vọng hương.
Cửu nhật Đào gia tuy tái tửu,
Tam niên Sở khách dĩ triêm thường.
Dịch nghĩa
Lá phong đang rụng bên bờ sông, hoa cúc đã vàng,
Già trẻ đều lên cao vọng về quê nhà ở xa.
Tuy đã có người cho rượu uống trong tiết trùng dương,
Nhưng lưu lạc đất Sở đã ba năm, lệ rơi ướt áo.
