HỒ HÁN – HỒ TÂY
Chàng về Hồ, thiếp cũng về Hồ
Chàng về Hồ Hán, thiếp về Hồ Tây
Hồ là sự kết dính mang tính đất, nhưng không phải sự kết dính nào cũng tạo ra sự kết nối, vì có thể kết dính được cái này thì mất đi cái khác, kết nối bộ phận thì mất đi tổng thể.
Hồ nhiều hoả, ít nước là đất bị khô hạn, thành thổ. Đó là Hồ Hán. Ví dụ trộn cát với xi măng thành dạng dẻo, sệt như đất, nhưng sau khi khô đi thành bê tông. Ví dụ trốn đất với nước để nặn gốm, trạng thái gốm chưa nung là đất nhưng trạng thái gốm nung rồi là thổ. Hồ Hán là biểu tượng cho quan hệ âm dương ly biệt, quan hệ âm dương vô cực, vì sự kết nối chỉ dành cho bộ phận.
Hồ nhiều nước, ít lửa là đất đầm, đất ao, đất nước. Đó là Hồ Tây. Hồ Tây là biểu tượng cho quan hệ âm dương song hành và của sự kết nối tổng thể.
SÔNG HÁN – SÔNG HỒ
Tóc em dài em kết làm quang
Gánh nước sông Hán đổ sang sông Hồ
Ai ngờ sông Hán cạn khô
Để cho sông Hán sông Hồ cách xa
Tóc em dài em kết làm quang/Gánh nước sông Hán đổ sang sông Hồ : Tóc là máu, lễ kết tóc xe tơ là lễ kết máu. Vì sông Hán và sông Hồ là sông máu, nên kết nối với nhau bởi tóc.
Ai ngờ sông Hán cạn khô/Để cho sông Hán sông Hồ cách xa : Cùng là sông nhưng sông Hán thì cạn, còn sông Hồ thì đầy.
Một đặc điểm của Hồ Tây xuyên suốt trong ca dao là nước bùn mà vẫn trong, mát, đầy và không bao giờ vắng ánh trăng.
Trên trời có một ông sao
Chỗ quang không mọc mọc vào đám mây
Nước hồ Tây biết bao giờ cạn
Nhị vườn đào biết vạn nào hoa
Đưa nhau một quãng đường xa
Hỏi thăm anh tú có nhà Cửa Nam.
Bài ca dao trên nói về nước hồ Tây không bao giờ cạn.
Nước Tây Hồ vừa trong vừa mát
Đường chợ Bưởi lắm cát dễ đi
Cô kia bóng bẩy làm chi
Để cho anh ấy đi đi về về.
Bài ca dao trên nói về nước Tây Hồ vừa trong vừa mát, trong là bởi vì ít bùn, ít căn, còn mát là bởi vì gần với nước lã, nước nguồn.
Chẳng vui cũng thể hội Thầy
Chẳng trong cũng thể hồ Tây xứ Đoài
Bài này cũng nói về nước hồ Tây trong
Gương kia nỡ để bụi nhòa
Sông có Nhị Hà núi có Tản Viên
Thề kia sao để lỡ duyên
Trăng còn soi mãi vùng sen Tây Hồ
Bài này nói về Hồ Tây có sen mọc, chứng tỏ nước hồ Tây có bùn.
Từ đặc điểm của sông Hồ, giống như Hồ Tây là có bùn, đầy nước, nước trong, nước mát, nhiều sóng và đầy ánh trăng là ánh sáng dạng sóng, có thể suy đặc điểm của sông Hán là ít bùn, nước cạn, nước đục, nước nóng và nhiều hạt lửa ánh sáng ví dụ ánh sáng Mặt Trời.
Người Trung Quốc gọi mình là người Hán, đây là gọi theo dòng máu Hán, dân tộc Hán. Dòng đối lập với Hán là máu Hồ, mà tiêu biểu là rợ Hồ (người Mông Cổ) phía Tây Bắc Trung Quốc. Người Việt không chỉ là người dân tộc Kinh, mà dòng máu của Bách Việt là Lạc Hồng, có nghĩa là hoà trộn nhiều dân tộc chung gốc là Bọc Trăm Trứng. Trong dòng máu Lạc Hồng có cả máu Hán và máu Hồ, và một trong các bể máu Lạc Hồng tiêu biểu là Hồ Tây.
NGƯỜI HÁN – NGƯỜI HỒ
Kẻ Hán người Hồ
Kẻ Hán người Hồ Lấy từ điển tích Chiêu Quân cống Hồ. Vương Chiêu Quân là một trong tứ đại mĩ nhân của Trung Quốc, với vẻ đẹp “lạc nhạn” (chim sa), nhưng vì không chịu đút lót cho họa sĩ của vua nên bức chân dung của nàng bị vẽ xấu xí, vua không để mắt tới. Khi Hán Nguyên Đế phát hiện ra Chiêu Quân thì vua Hung Nô (rợ Hồ) mang quân sang đánh, buộc Hán phải cống nàng cho Hồ thì mới yên. Trên đường cống sang Hồ, Chiêu Quân cảm tác nhiều bài thơ và nhạc khúc rất cảm động. Thành ngữ kẻ Hán người Hồ, cũng nói tắt là Hán Hồ, vì thế chỉ nỗi đau li biệt của đôi lứa yêu nhau.
MẤT NƯỚC – HÁN HỒ XA NHAU
Hán Hồ xa nhau, vì mất nước là trạng thái chung của Công Nguyên.
Ai làm cho biển cạn khô,
Chiếc thuyền sang không đặng, Hán Hồ xa nhau.
Biển cạn là tình trạng hạn hán, biển hồ suy, hán quá mạnh, khiến cho Hán Hồ xa nhau.
Một đấu gạo, năm bảy đấu khoai ngô,
Thiếp chúc chàng về cho đến kinh đô,
Lúc giờ đây phân chia đôi ngả, Hán với Hồ ta biệt nhau.
Một đấu gạo, năm bảy đấu khoai ngô : Gạo nấu lên thành cơm có tính hồ đất, hồ ẩm, hồ nước, tinh dẻo. Ngô khoai là các đồ ăn có tính khô, tính bột hơn. Tỷ lệ hồ nước của gạo so với hồ bột, hồ khô, hồ hán của ngô khoai đang là 1 : 5-7, nghĩa là đang mất nước nghiêm trọng, hạn hạn nghiêm trọng.
DỨT TÌNH – HÁN HỒ XA NHAU
Hán Hồ là biểu tượng âm dương chia cắt, do dứt tình.
Bậu đừng dứt nghĩa cầu Ô
Chớ anh không phụ Hớn Hồ như ai
Cầu Ô là cầu Ô Thước cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau vào Thất Tịch. “Dứt nghĩa cầu Ô” là dứt tình đôi lứa, không song hành cùng nhau.
Chẳng thà anh chết một mình
Để em ở lại cắt tranh đậy mồ
Sống làm chi kẻ Hán người Hồ
Nghiêng mình nằm xuống một mồ với anh
Ngược lại là trạng thái Hán Hồ, âm dương chia cắt là tình trạng âm dương song hành, đồng sinh đồng tử.