ĐỒNG TIỀN THÁI BÌNH

Đồng tiền Thái Bình Hưng Bảo là đồng tiền đầu tiên của nước Việt, đúc bằng đồng vào thời Đinh Tiên Hoàng, có hình dáng ngoài tròn đặc, trong vuông rỗng
Thái Bình
– là niên hiệu của thời kỳ trị vì của vua Đinh Tiên Hoàng
– là xứ sở của nghĩa quân Trần Lãm, nơi Đinh Tiên Hoàng bắt đầu sự nghiệp thống nhất 12 xứ quân.
Nghĩa của Thái Bình là âm dương thuận lý, song hành cùng âm dương nghịch lý, nghĩa là âm dương đồng.
Biểu tượng của Thái Bình chính là bên trong vuông rỗng và bên ngoài tròn đặc, y như hình dáng của đồng tiền Thái Bình.
Thái Bình không có nghĩa la hoà bình, mà có thể có nhiều xung đột như thời kỳ 12 xứ quân.
Cầu Trường Tiền sáu nhịp bắc qua
Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ đợi khúc âu ca thái bình
Nghìn thu gặp hội thái bình,
Trải xem phong cảnh khắp thành Thăng Long.
Phố ngoài bao bọc thành trong,
Cửa Nam, Giám, Bắc, Tây, Đông rõ ràng.
—o—o—o—
ĐỒNG TIỀN VẠN LỊCH
Ðồng tiền Vạn Lịch thích bốn chữ vàng
Công anh dan díu với nàng đã lâu.
Bây giờ nàng lấy chồng đâu,
Ðể anh giúp đỡ trăm cau ngàn vàng.
Trăm cau để thết họ hàng,
Ngàn vàng anh đốt giải oan lời thề.
Bốn chữ “Vạn Lịch thông bảo” 萬曆通寶 (đồng tiền lưu hành thời Vạn Lịch) đúc trên đồng tiền.
Ngày xưa có người lái buôn tên Vạn Lịch giàu có vào hạng nhất, nhì trong nước. Đồ dùng toàn bằng vàng, bạc. Ông có một người vợ trẻ đẹp tên Mai Thị. Chồng có tính ghen nên Mai Thị sống trong nhung lụa mà chẳng sung sướng gì.
Một hôm thuyền buôn đậu ở một bãi vắng. Một người đánh giậm ở đâu đến xin một miếng trầu cho đỡ rét. Thấy cảnh vợ “tình tứ” với trai lạ, cơn ghen nổi lên, Vạn Lịch xỉ vả vợ thậm tệ. Ông ta vứt cho nàng một thoi vàng, một thoi bạc rồi đuổi đi.
Mai Thị gặp lại người đánh giậm rồi kết vợ chồng. Họ sống trong túp lều ven sông. Cuộc sống nghèo nàn nhưng cũng tạm ổn. Một lần vô tình người chồng cầm thoi vàng ném gà, người vợ trách sao lại lấy vàng mà ném. Người chồng ngạc nhiên nói, những thứ ấy tôi thấy nhiều ở bãi sông. Người vợ giục chồng đem về. Đó là vàng của Vạn Lịch, chắc do đắm thuyền. Từ đó, vợ chồng giàu có. Nhiều của cải nhưng người chồng đần độn nên chẳng có ai chơi.
Một hôm, người chồng làm đổ tượng trong ngôi đền vốn là nơi phát tích của nhà vua. Nhà vua bị đau bại nửa người, không danh y nào chữa được. Vua sai yết thị ai dựng lại được tượng sẽ được thưởng. Anh chồng dựng lại được như cũ. Vợ chồng chỉ xin vua làm chức tuần ty ở sông. Vạn Lịch kinh ngạc gặp người vợ cũ cùng người đánh giậm ngày xưa. Mai Thị mát mẻ:
“Biết rằng anh vẫn đi buôn
Em về kiếm chốn nha môn ngồi tuần
Dù anh buôn bán xa gần
Làm sao tránh khỏi cửa tuần em đây”.
Vạn Lịch vô cùng xấu hổ. Ông ta làm giấy kê khai tất cả của cải đem biếu Mai Thị để chuộc lỗi xưa, rồi đâm cổ tự tử. Mai Thị hối hận. Nàng đem tất cả tài sản của Vạn Lịch, tâu vua xin đúc một thứ tiền gọi là “Đồng tiền Vạn Lịch” rồi đem phân phát cho những người nghèo khổ. Từ đó ca dao có câu hát:
Đồng tiền Vạn Lịch thích bốn chữ vàng
Anh tiếc công anh dan díu với nàng bấy lâu…
—o—o—o—
ĐỒNG TIỀN GIEO QUẺ
Đồng tiền gieo quẻ là đồng xu ngoài tròn trong vuông rỗng, có chữ một mặt. Mỗi đồng xu có hai mặt, một mặt được coi là “ngửa” (có chữ) và mặt kia là “sấp” (không có chữ). Đồng tiền này thường để trước ban thờ, để gieo quẻ Kinh Dịch. Mục đích của việc này là để tiên đoán kết quả hoặc tình hình của một sự kiện sắp tới hoặc để tìm hiểu về một vấn đề cụ thể.
Cách gieo quẻ bằng 3 đồng xu, mỗi đồng xu 2 lần liên tiếp, tổng công là 6 lần
– Nếu 2 đồng ngửa, 1 đồng sấp (2 chữ, 1 không chữ) thì ghi là hào dương (+)
– Nếu 1 đồng ngửa, 2 đồng sấp (1 chữ, 2 không chữ) thì ghi là hào âm (-)
– Nếu 3 đồng ngửa (3 chữ) thì ghi là hào âm (-) (động)
– Nếu 3 đồng sấp (3 không chữ) thì ghi là hào dương (+) (động)
Từ 6 lần gieo, ta có 6 hào, tạo thành một quẻ Kinh Dịch hoàn chỉnh. Sau đó, có thể tra cứu ý nghĩa của quẻ trong sách Kinh Dịch hoặc nhờ người am hiểu giải đoán.
Có một cách bói đơn giản hơn là lập mặt ngửa là được, đúng, tốt, lành còn ngược lại là không được, sai, dữ.
Đôi ta như ruộng năm sào
Cách bờ ở giữa làm sao cho liền?
Đôi ta như thể đồng tiền
Đồng sấp đồng ngửa đồng nghiêng đồng nằm
Đôi ta như thể con tằm
Cùng ăn một lá cùng nằm một nong
Đôi ta như thể con ong
Con quấn con quýt con trong con ngoài
Đôi ta như thể con bài
Đã quyết thì đánh đừng nài thấp cao
Đôi ta như đá với dao
Năng liếc năng sắc năng chào năng quen
—o—o—o—
TIỀN ĐỒNG – TIỀN BẠC – TIỀN VÀNG
Tiền bạc là tiền vật lý, để mua bán trao đổi và thực hiện các giao dịch theo kiểu “tiền trao cháo múc”
Tiền vàng là tiền vàng mã, chuyên đốt để thực hiện các trao đổi có tính ân – nghĩa, xin – cho, vay – trả, ban phát – đáp đền, nợ nần – ân oán …
Đã tiền bạc thì cần sòng phỏng, mua đứt bán đoạn, không có ân nghĩa, nợ nần gì.
Đã tiền vàng thì dù có chi bao nhiêu tiền thì cái chính vẫn là ân nghĩa, vẫn là nợ nần
Tiền vàng là tiền được đảm bảo bằng vàng hoặc vật chất tương tự.
Tiền bạc là tiền giấy, tiền điện tử và các loại tiền không được đảm bảo bằng vật chất ngang giá.
Tiền đồng là Tiền bạc và Tiền vàng, vừa giao dịch tình cảm, ân nghĩa, vừa giao dịch vật chất theo kiểu mua đứt bán đoạn.
SỰ TÍCH ĐỒNG ĐEN LÀ MẸ TRÂU VÀNG
Đồng đen cũng thực sự được tạo ra từ đúc vàng bạc và đồng.
Thần Trâu Vàng hồ Tây được truyền lại vào khoảng năm 1030 triều Lý. Ngày đó có vị thiền sư họ Phương, pháp danh Không Lộ, rất giỏi về nghề y, đã sang sứ nhà Tống chữa bệnh cho Hoàng tộc. Sau khi người nhà vua Tống khỏi bệnh, để tỏ lòng tri ân, vua Tống đặc ân cho sứ thần An Nam thích sản vật gì của Bắc quốc thì nhà vua sẽ tặng. Thiền sư Không Lộ tâu xin một ít đồng đen về đúc chuông kỷ niệm. Sau khi về nước, thiền sư cho đúc một quả chuông lớn, sau đó treo lên. Khi thỉnh, tiếng chuông ngân vang sang tận Bắc quốc. Trâu vàng của vua Tống ngỡ là tiếng mẹ gọi, phi thẳng sang nước Nam. Đến khu vực rừng lim ngoài kinh thành Thăng Long thì không còn tiếng ngân của chuông, Trâu vàng bị mất phương hướng, đã quần thảo khu rừng lim sụt thành hố nước mênh mông. Nhân sự kiện này, thiền sư cũng thả luôn quả chuông đồng đen xuống hồ, nơi đó chính là hồ Tây ngày nay. Thần Trâu Vàng đã được các triều vua nước Nam phong sắc “Trấn quốc phù lộ diên tường Đế quân”.
Dấu tích của huyền sử trên
– Đền Kim Ngưu nằm bên cạnh Phủ Tây Hồ (phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội). Huyền tích Kim Ngưu được ghi trên tấm bảng vàng ngay cửa đền. Khu vực Hồ Tây trước đây là rừng lim. Việc hình thành hồ Tây là do vỡ đê, nước sông Hồng tràn vào, đến nay, ở gần khu vực hồ bơi Quảng Bá nước xoáy vào nên có độ sâu nhất, 18 – 20 mét, còn lại những khu vực khác chỉ vài ba mét. Ngay trước khu vực cửa đền Kim Ngưu, vào mùa nước cạn, có thể lội bộ ra giữa hồ, nước chỉ ngang người. Vào mùa nước cạn và vào khu vực nước cạn, thuyền và lưới đánh cá vẫn có thể vướng vào gỗ kim cổ
– Nhà sư Không Lộ là thiền sư dòng Vô Ngôn Thông, chùa tổ là cùa Kiến Sơ ở làng Phù Đổng. Khu vực này liên quan đến sự tích Phù Đổng Thiên Vương, Thánh Gióng đánh giặc Ân, Ân Vương chết ở Trâu Sơn. Không Lộ cũng là Khổng Lồ, hay ông Đổng, cha của Phù Đổng Thiên Vương. Thần tích về thánh Nguyễn Minh Không cho biết, mẹ của ông là bà họ Dương đi cầu tự, đã nằm mộng gặp được Thái Thượng Lão Quân. Lão Quân chỉ cho bà Dương nuốt một con bò vàng (“Hoàng ngưu”) để có được đứa con Phật (“Phật tử”). Từ đó, bà có mang, sinh ra thánh Không Lộ.
Lĩnh Nam chích quái kể rằng, xưa ở núi Tiên Du (tỉnh Bắc Ninh) có tinh trâu vàng nửa đêm thường tỏa ra ánh sáng. Có nhà sư lấy tích trượng yểm lên trán trâu, trâu vàng bỏ chạy, đến địa phận Văn Giang, qua các xã Như Phượng, Như Loan, Đại Lạn, Đa Ngưu. Trâu lại từ trong bến ra sông Cái, đến Ninh Giang, đi men phủ Lý Nhân, theo ven sông Cái tới sông Tô Lịch, chỗ ấy chính là Tây Hồ. Trên đường trâu chạy, khắp nơi biến thành khe, ngòi, rãnh, lạch.
Núi Tiên Du ở Bắc Ninh là nơi tu hành của Khâu Đà La, là vị tu sĩ Bà Là Môn đã truyền đạo vào nước ta những thế kỷ đầu Công nguyên. Trên núi nay còn có chùa Kim Ngưu tại thôn Cổ Miếu, xã Phật Tích, huyện Tiên Du.Quanh chùa còn phát hiện được những bức với tượng linh vật đá từ thời Lý, trong đó có tượng hình trâu đang quỳ chầu. Ngôi chùa Linh Quang ở cùng xã đó tương truyền là nơi Khâu Đà La tu hành và nay còn thờ ông tại đây. “Nhà sư lấy tích trượng yểm lên trán trâu” ở núi Tiên Du như thế chính là vị tu sĩ Khâu Đà La.
Con trâu vàng từ núi Phật Tích chạy qua sông Đuống, sang bên kia bờ sông là thành cổ Luy Lâu, trung tâm của Giao Châu thời Bắc thuộc. Đây là nơi có ngôi chùa Dâu cổ kính, gắn với sự tích về Khâu Đà La và Phật Bà Man Nương sinh ra Tứ Pháp Vương Phật.
Trâu vàng tiếp tục đi men phủ Lý Nhân sang đất Hà Nam. Tới đây, câu chuyện liên quan tới một vị tướng thời nhà Đường. Sách “Thăng Long cổ tích khảo” chép rằng: “Tương truyền đời Đường, Cao Biền làm Tiết độ sứ An Nam đô hộ phủ, đi các nơi có núi sông danh thắng của ta để yếm diệt long mạch. Khi Biền đào sông yểm mạch núi Long Đội, Sơn Thần núi ấy biến thành hình con trâu toả ánh vàng bơi theo sông Đường Giang lên phía Bắc, ẩn ở vùng Hồ Tây thành Đại La”.
Cao Biền là tướng nhà Đường được cử sang dẹp quân Nam Chiếu ở Bắc Việt. Nam Chiếu khi đó là một quốc gia theo đạo Bà La Môn nên đã được hình tượng hóa bằng hình ảnh trâu vàng – Kim Ngưu. Khu vực Đọi Sơn có lẽ từng là một căn cứ quan trọng của Nam Chiếu. Cao Biền dẫn quân đổ bộ bằng đường biển từ vùng Thái Bình – Nam Định tiến đánh Nam Chiếu, trước hết là đánh vùng Lý Nhân Hà Nam này, sau đó mới tiến chiếm thành Đại La.
Bài thơ trong “Lĩnh Nam chích quái” nói về việc này:
Trâu vàng còn ẩn mãi trong hồ
Dấu vết khó tìm dẫu nước khô
Đại Việt Nam yên nhờ thánh chúa
Cao Biền hạ bút hận không bờ”.
—o—o—o—
TIỀN ĐỒNG : CA DAO TỤC NGỮ
Ca dao, tục ngữ nói về tiền đồng với sự cân bằng và mất bằng giữa tiền bạc và tiền vàng, giữa mua bán sòng phẳng và ân nghĩa
Đồng tiền liền khúc ruột
Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn
Có tiền mua tiên cũng được
Không có tiền mua lược cũng không xong
Tiên cơ bản là không mua được, thế mà “có tiền mua tiên cũng được”, thì tiền ấy nhất định phải là tiền, tiền nghĩa, hay tiền đồng như trong chuyện Giếng Việt. Lược là đồ vật chất nhưng có tiền vẫn không mua được vì lược chuyên dùng để làm các vấn đề tinh thần như xe tơ kết tóc, chiến lược, sách lược …
Đồng tiền lận
Nhân nghĩa kiệt
Quan hệ đồng tiền thiên về tiền bạc, tách rời thậm chí áp chế nhân nghĩa.