BỘ ĐÔI TRÂU NGỰA

Loading

NGƯU TẦM NGƯU, MÃ TẦM MÃ
Trong 12 con giáp, có một bộ đôi rất đặc biệt là “trâu ngựa”. Ca dao, tục ngữ có rất nhiều bài nhắc đến bộ đôi này.
Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã.
Về nguyên tắc, nhiều loài tìm đồng loại để kết đôi, kết bầy, tại sao câu này chỉ nhắc đến “ngưu” và “mã” ?
Thứ nhất, bởi vì tính bầy đàn của ngựa và trâu rất tốt. Có bức tranh “Mã đáo thành công” tả cách di chuyển của cả đàn ngựa và có câu “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”.
Thứ hai, bởi vì hai con vật này đối xứng với nhau, và đại diện cho cho hai kiểu bầy đàn tiêu biểu.
—o—o—o—
BỘ ĐÔI TRÂU NGỰA
Cùng là con vật móng guốc bốn chân, cách đi của trâu và ngựa là đối xứng
– Trâu có tính đất, đi dưới mặt đất. Trâu cắm sâu chân và mài móng xuống đất bùn thành luống, đi như vậy giống như nghịch đất, vất vả nhưng trâu lại thích, cho nên người ta dùng trâu để kéo cày ngoài đồng
– Ngựa có tính khí, đi trên mặt đất. Ngựa phi trên thảo nguyên khô ráo, như bay cứ như chân chạy trên đường ray, không chạm đất
Nếu gọi tầng mặt đất là tầng 0, tầng dưới mặt đất là – 1, 2, 3 … và tầng trên mặt đất là + 1, 2, 3 … thì
– trâu cầy ở tầng dưới mặt một chút hay tầng -0
– ngựa phi ở tầng trên mặt một chút hay tầng +0.
Ngưa và trâu đều là biểu tương của cánh đồng
– Trâu là biểu tượng của đồng ngập nước hay đồng lúa
– Ngựa là biểu tượng của đồng cỏ tương đối khô ráo hay thảo nguyên
Ngựa và trâu là biểu tượng của sức mạnh
– Sửu (Trâu) là biểu tượng của sức mạnh cấu trúc mang tính đất, như các vùng đất và thân thể cơ bắp. Sức mạnh của trâu có đất, tính trụ, tính bảo thủ, nhưng lại rời ra khỏi đầu hoặc biến đầu thành đầu đất. Thành ngữ có câu “Khoẻ như trâu mộng” hoặc “Khỏe như tru, Ngu như lợn”
– Mã (Ngựa) là biểu tượng sức mạnh vận hành, của luồng vận hành xuyên suốt và thống nhất, có tính đột phá, tính sáng tạo, đổi mới cả trong và ngoài, tinh thần và tâm trí thông suốt. Thành ngữ có câu “Thẳng như ruột ngựa”, “Ngựa phi như bay”.
Về vận hành của chu kỳ thời gian
– Sửu là canh 4, sau canh 3 giờ Tý, giữa đêm
– Ngọ là giữa trưa, Chính Ngọ là khắc giữa trưa, khi dương khí đạt đỉnh, Mặt trời đứng bóng.
Ngọ là giờ giữa trưa đối xứng với giờ Tý giữa đêm, Sửu là canh giờ tiếp sau giờ Tý.
—o—o—o—
BỘ ĐÔI NGƯỜI NGỰA & NGƯỜI TRÂU
Trâu và ngựa tạo nên các cặp đôi đồng hành với con người. Đó cũng là “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” nhưng là về tinh thần, về cốt cách. Người có cốt trâu thì thân với trâu, đi chăn trâu, còn người có cốt ngựa thì cưỡi ngựa, đồng hành với ngựa.
Ca dao nói về cặp đôi trâu và người nông dân
Trâu ơi, ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn
Đông Hồ có một bộ tranh về trâu và người
– Bộ mục đồng : Chăn trâu thả diều, Chăn trâu thổi sáo. Chăn trâu đọc sách
– Nông nhàn : Bức này mô tả người nông dân bên con trâu
Anh hùng chăn trâu trong sử Việt chính là Đinh Bộ Lĩnh. Đội quân đầu tiên của ông thành lập là đội quân trẻ chăn trâu, trong số trẻ chăn trâu này có những người sau này là tướng cốt cán của Đinh Bộ Lĩnh.
Trong huyền sử có nhiều cặp đôi người trâu mà người chăn trâu bỏ trâu, vì mải chơi hoặc mải yêu đương. Trường hợp thứ nhất là Cuội, trường hợp thứ hai là Ngưu Lang. Cả hai trường hợp người bỏ trâu này đều đem lai kết cục bi thảm.
Thằng Cuội ngồi gốc cây đa
Để trâu ăn lúa, gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên
Ông thời cầm bút cầm nghiên
Ông thời cầm tiền đi chuộc lá đa
Thằng Cuội chết tối hôm qua
Đánh trống, đánh phách đưa ma ra đồng
Cuội chỉ ngồi gốc cây đa, bỏ trâu không chịu chăn, thế là Cuội chết. Tại vì trâu là biểu tượng của cái thân, người mà bỏ quên thân thì sức khoẻ sẽ suy kiệt, suy quá thì sẽ chết.
Ngưu Lang bỏ bê trâu, cùng với Chức Nữ nên bỏ bê dệt vải, vì mải yêu nhau, nên hai người này bị Ngọc Hoàng phạt đầy ra hai đầu sông Ngân, đến Thất Tịch mới lên cầu Ô Thước gặp được nhau.
Cũng có nhiều câu chuyện về cặp đôi người ngựa.
Ngựa hay chẳng quản đường dài
Nước kiệu mới biết tài trai anh hùng
Cặp đôi người ngựa nổi tiếng là Ngựa Kiền Trắc và đức Phật Thích Ca.
– Trong các thuyết Phật giáo và các câu chuyện liên quan, nó là con ngựa hay nhất trong Hoàng cung của đức vua Suddhodana và cũng là con ngựa yêu thích của thái tử Siddhartha, khi thái tử dạo chơi bên ngoài hoàng cung, chính con ngựa này đã giúp cho hoàng tử quyết tâm chân tu, dứt duyên với bụi trần. Khi Tất Đạt Đa rời bỏ cung điện để tu hành, ngựa Kiền Trắc cũng theo tới cùng và phụng sự không ngừng nghỉ. Tương truyền rằng, sau khi đưa thái tử gia Siddhartha xuất gia trở về, con ngựa Kanthaka đã quá đau buồn, vỡ tim (broken hearted) mà chết. Sau cùng khi chết đi, vì nhiều công đức, ngựa Kiền Trắc được tái sinh là một đạo sĩ, được ngộ đạo và nhập niết bàn.
– Theo tín niệm, Kanthaka (Kiền Trắc) là con ngựa quý ra đời tại hoàng cung của Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) cùng một ngày với Thái tử Siddattha. Ngựa Kiền Trắc lớn lên và phục vụ nhà vua cho đến năm 29 tuổi, nó cùng với người giữ ngựa Channa (Xa-nặc) đưa Thái tử lên đường xuất gia, sau đó ngựa đau buổn phát bệnh, từ trần và tái sanh lên cõi Trời. Theo kinh tạng Pàli, có là một trong bảy nhân vật đồng sanh cùng một ngày với Thái tử Tất Đạt Đa gồm Thái tử, Công chúa Da-du, Ca-lưu-đà-di (Kaludàyin), Xa-nặc (Channa), Kiền Trắc (Kanthaca), voi báu và cây Bồ đề.
– Kiền Trắc Mã là một con ngựa trắng (bạch mã) mà bạch mã Balaha là một tiền thân của Phật Thích Ca (Jataka/Bổn sanh kinh) và ở kiếp cuối cùng, là con ngựa Kiền Trắc, vật cưỡi của thái tử Tất Đạt Đa. Con ngựa trắng không có người cỡi đã trở thành biểu tượng của chính Phật Thích Ca Mâu Ni.
—o—o—o—
ĐẦU TRÂU MẶT NGỰA
“Đầu trâu mặt ngựa” là tên của quỷ sứ ở địa ngục, làm việc cho Diêm Vương.
– Đầu trâu chuyên cửa ngục của 18 tầng địa ngục, vai trò như thổ địa cõi Âm Phủ
– Mặt ngựa đi các luồng giữa các thập điện, vai trò như thần tài cõi Âm phủ
Như vậy có thể nói, “Đầu trâu mặt ngựa” là quan chức ở Âm phủ, đối xứng với Thần Tài, Thổ Địa ở Dương gian .
Trâu là biểu tượng của đất, của địa phủ
– Ngưu Ma Vương là Ma Vương có hình dáng trâu
– Đầu trâu là quân lính canh 18 cửa ngục của Địa Phủ, giống như thổ địa của thế giới âm
Mã cũng gắn với thế giới âm và người chết, mà sống ở thế giới âm và địa phủ
– “Mã” nằm trong bộ âm “ma” và “mả”
– Vàng mã là công cụ vận hành, trao đổi thông tin, ước nguyện, hứa hẹn, cảm tạ … từ thế giới dương xuống thế giới âm
MẶT NGỰA LÀ GÌ ?
Ngựa có bản chất hai mặt vì mặt ngựa là chia đôi ở bên trái và bên phải. Hai mắt ngựa nằm ở hai bên trái phải thay vì đều nằm phía trước như với mắt người. Loài ngựa có tầm nhìn ngoại vi rất rộng, nhưng lại có hai điểm mù. Một điểm nằm ngay phía trước mặt ngựa, và một điểm khác nằm ngay phía sau đầu. Điều này có nghĩa là ngựa không thể nhìn thấy rõ những gì nằm ngay trước mặt hoặc phía sau lưng. Ngựa phải lắc đầu để quan sát vật thể phía trước và quay đầu để quan sát những vật thể phía sau. Câu “ngựa không nhìn được phía trước” ám chỉ việc con người không nhìn thấy hoặc bỏ qua những gì đang diễn ra ngay trước mắt, thường là do sự phân tâm hoặc thiếu tập trung, như ngựa có mặt nhìn hai bên nhưng lại không tập trung được vào giữa. Một con ngựa bạch thì tính phân tách trái phải hay tính thái bạch của nó lại càng rõ, giống như có bức tường thuỷ tinh tại mặt phẳng chính của cơ thể (sagittal) mà cắt đôi người con ngựa, chia mặt nó thành hai nửa độc lập. Vì ngựa có hai mặt, nên nó không “đối mặt”, mà nó cứ lắc đầu qua bên phải rồi lại lắc đầu qua bên trái hoặc đá hậu.
ĐẦU TRÂU LÀ GÌ ?
Trâu, ngược lại với ngựa, rất thích đánh nhau tay đôi, đối đầu, đối sừng trực diện. Trâu đực rất hay húc nhau, nên có tục chọi trâu. Trâu cũng dùng sừng tấn công kẻ săn mồi hoặc các dạng kẻ thù khác. Bình thường, trâu đã rất khoẻ, thì rất lỳ lợm.
Ngựa ít đánh nhau tay đôi, và trong trường hợp hai con ngựa đấu nhau tay đôi, chúng dùng chân để đá đối thủ. Khi gặp kẻ thù, ngựa cũng không đối mặt mà dùng chân chạy trốn.
Tóm lại, người “đầu trâu” là người có sừng và không đánh nhau tay đôi, không ngán đối đầu, đối sừng và một khi đã đánh nhau là cực kỳ lỳ; còn người mặt ngựa là người chơi “hai mặt” và không muốn “đối mặt”, mà sẽ đối chân, “đá hậu” như ngựa hoặc “ném đá dấu tay”.
—o—o—o—
LÀM THÂN TRÂU NGỰA
Nếu như trâu ngựa là quân tướng, là thủ lĩnh dưới địa phủ thì trong thế giới dương gian của Ngọc Hoàng. Trâu ngựa là cách gọi của người nô lệ, người làm thuê. “Làm thân trâu ngựa” là bán sức lao động, cho địa chủ, cho ông chủ.
Xoài giòn, mít dẻo, thị dai
Làm thân trâu ngựa chẳng nài gian lao
—o—o—o—
KIẾP TRÂU NGỰA
“Kiếp trâu ngựa” là kiếp sống trải qua các thái cực
– “Đầu trâu mặt ngựa” : Làm tướng, làm quan, làm thủ lĩnh ở Âm phủ
– “Làm thân trâu ngựa” : Làm hầu, làm thuê ở Dương gian
—o—o—o—
TRÂU NGỰA : TÀI SẢN LỚN NHẤT CỦA NHÀ NÔNG & QUAN BINH THỜI XƯA
Trâu là vật nuôi cỡ, là tài sản lớn nhất của nhà nông ngày xưa. Ngựa vật nuôi, là tài sản quý nhất của nhà quan binh ngày xưa. Trâu ngựa có tuổi thọ cao, có thể đi theo suốt cuộc đời người chủ.
Con trâu là đầu cơ nghiệp
Một rằng mình quyết lấy ta
Ta về bán cửa bán nhà mà đi
Ta về bán núi Ba Vì
Bán chùa Hương Tích, Phật đi làu làu
Ta về bán hết ngựa trâu
Bán hột thầu dầu, bán trứng gà ung
Bán ba mươi sáu Thổ công
Bán ông Hành khiển, vợ chồng Táo quân
Bán từ giờ Ngọ giờ Dần
Giờ Tí giờ Sửu giờ Thân giờ Mùi
Ta về bán cả que cời
Bán tro đun bếp bán trăm khêu đèn
Ta về bán trống bán kèn
Có gì bán hết, lấy tiền cưới em
Hòn đá cheo leo
Con trâu trèo con trâu trượt
Con ngựa trèo con ngựa đổ
Anh thương em lao khổ
Tận cổ chí kim
Anh thương em khó kiếm, khôn tìm
Cây kim luồn qua sợi chỉ
Sự bất đắc dĩ phu phải lìa thê
Nên hay không nên, anh ở em về
Đừng giao, đừng kết, đừng thề mà vương
Anh như ngựa tía nhà quan
Em như trâu, nghé lạc đàn bơ vơ
Anh như chỉ thắm thêu cờ
Em như rau má mọc bờ giếng thơi
Giếng thơi gàu múc lưng chừng
Dẫu là vụng liệu xin đừng trách dây
Ngựa ai buộc ngõ ông Cai
Xoàn ai mà lại đeo tai bà Nghè
Ngựa ai buộc ngõ ông Nghè
Trâu ai lại buộc bụi tre ông thầy
Canh một dọn cửa dọn nhà
Canh hai dệt cửi canh ba đi nằm
Canh tư bước sang canh năm
Chiềng anh dậy học còn nằm làm chi
Một mai chúa mở khoa thi
Bảng vàng chói lọi bia đề tên anh
Bõ công cha mẹ sắm sanh
Tiền lưng gạo bị cho anh về trường
Nghi vệ đóng hai bên đường
Ngựa anh đi trước võng nàng theo sau
Kẻ chiêng người trống đua nhau
Tiếng khoan tiếng nhịp tiếng mau rộn ràng
Rước vinh quy về nhà bái tổ
Ngả trâu bò làm lễ tế thần
Để cho bảy huyện nhân dân
No say được đội hoàng ân từ rày
Tôi lạy ông Cầu bà Quán
Phù hộ cho mẹ đĩ nhà tôi
Nó ăn nó chơi
Như con ngựa ngáp
Việc làm thì nhác
Lại hay nỏ mồm
Củ từ khoai môn
Bao nhiêu cũng chứa
Vớt bèo thì ngứa
Xay thóc nhức đầu
Chăn trâu ngã nắng
Cưới em mười chín con trâu
Mười hai con lợn thì dâu mới về
Dâu về dâu chẳng về không
Dâu thì đi trước ngựa hồng theo sau
Ngựa Lồng, Trâu Đụng, Giằng Xay
Khỏi ba thác ấy khoanh tay mà ngồi
Chia sẻ:
Scroll to Top