Ca dao, tục ngữ : Giang – Dang – Rang

Loading

GIANG

NỨA GIANG
Ba năm trấn thủ lưu đồn,
Ngày thời canh điếm, tối dồn việc quan.
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn,
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai.
Miệng ăn măng trúc, măng mai,
Những giang cùng nứa, lấy ai bạn cùng.
Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng.
HÀNG GIANG
Chợ chùa một tháng sáu phiên,
Mời anh đi chợ thăm miền quê ta.
Xanh mắt là chị hàng na,
Mặn mà hàng muối, ngọt hoa hàng đường.
Thơm ngát là chị hàng hương,
Tanh tao hàng cá phô trương hàng vàng.
Bộn bề là chị hàng giang,
Bán rổ bán rá bán sàng bán nia.
Nghênh ngang là chị hàng cua,
Hàng ếch nhấp nhổm người mua cũng nhiều.
Hàng khoai đêm suốt sớm chiều,
Người quen kẻ lạ cũng đều ngợi khen.
CHỢ GIANG
Nón em mua ở chợ Giang
Hôm nay đi chợ gặp chàng cùng vui
Nón em che gió che trời
Che sao Bắc Đẩu, che người tri âm
Chợ Giang thuộc xã Thổ Tang (nên cũng gọi là chợ Thổ Tang), huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Từ thế kỉ 13, đây đã được coi là một vùng đất buôn bán có tiếng. Ngày nay đây là một chợ lớn của vùng, với mặt hàng tiêu thụ chính là nông sản.

LÁ GIANG

Trong vè bán quán có câu “Thịt gà nấu lá giang”. Lá giang hay còn gọi lá dang, dây dang, giang chua, Chu-mon (dân tộc Mường), lá vón vén, lá sủm lum (dân tộc Thái), lá sủm phát (dân tộc Kinh ). Lá giang có vị chua nên được dùng để nấu canh chua.

VÈ BÁN QUÁN

Tui xin mời cô bác
Cùng quý vị gần xa
Đi chơi hay về nhà
Lâu lâu gặp bằng hữu
Tui mời cho đầy đủ
Không sót một người nào
Chủ quán xin mời vào
Dùng cơm hay hủ tiếu
Thịt quay cùng xá xíu
Hễ có tiền là ăn
Thịt chó xào rau cần
Thịt bò thì nhúng giấm
Gà tơ thì nấu nấm
Chim sẻ thì rô ti
Cua lột chiên bột mì
Cá lý ngư làm gỏi
Nem nướng rồi bánh hỏi
Trứng vịt, trứng gà ung
Hẹ bông nấu với lòng
Cá thu thì kho rục
Lẩu mắm và rau nhút
Gà ác thì chưng sâm
Ăn thử liền một mâm
Biết ngon hay là dở
Chuột đồng thì ướp sả
Cà cưỡng lại kho tiêu
Thịt luộc cuốn trái điều
Cá trê thì kho tộ
Cá lóc thì xối mỡ
Thịt gà nấu lá giang
Nấu nướng thiệt đàng hoàng
Ăn ngon mà lại rẻ
Quán tui thì đầy đủ
Cô nhắc cùng Uýt ki
Pha với nước sô đa
Muốn khoái thêm dưa kiệu
Khách hàng nào mộ điệu
Thì kêu cá nướng trui
Khỏi xào nấu lôi thôi
Cứ xài đồ nguyên thuỷ
Người nào xài tiền kĩ
Tính toán thiệt chi li
Cứ kêu một tô mì
Rồi xin thêm nước súp
Tui rao chưa có hết
Còn cam, quýt, nhãn, hồng
Chuối già, dâu, bòn bon
Là đồ ăn la-set
Ăn rồi ra nhà mát
Hứng gió coi thả diều
Sài Gòn này đủ điều
Cơm Tiều rồi cơm Quảng
Cơm Tây cùng Nhựt Bổn
Hễ có tiền là ăn
GIỎI GIANG
Cô giỏi cô giang, cô đang xúc tép
Cô thấy anh đẹp cô đổ tép đi
—o—
Chồng em coi bộ tinh anh
Tưởng là chồng cũng học hành giỏi giang
Đêm nay gió hú ngoài làng
Thấy chồng điểm chỉ bẽ bàng lắm thay

CẬN GIANG

Nhất cận thị, nhì cận giang, tam cận lộ

BẾN GIANG
Lật đật cũng đến bến giang
Anh nay thong thả cũng sang chuyến đò

—o—

Vội vàng cũng tới bến giang
Tôi đây đủng đỉnh cũng sang bến đò.

GIANG TÂN

Anh không thương em, đừng nói chuyện sập sò
Giả như Tiên Bửu đưa đò giang tân

—o—

Từ phen ra tới giang tân
Sớm theo dặm tuyết đêm lần ngàn mưa
Tiếc công anh chứa nước đan lờ
Để cho con cá vượt bờ nó đi

ĐÒ GIANG

Anh về, anh lại sang ngay,
Em đừng tưởng gió, trông mây mà phiền
Anh về, anh lại sang liền,
Em đừng đi lại tốn tiền đò giang

GIANG ĐÔ

Hai ông tướng sĩ đề binh
Đem quân ra đánh giữa thành giang đô
Trận này mới biết giang hồ
Đem quân ra lấy cơ đồ nước non

Là làm gì? Chơi cờ tướng
GIANG HỒ

Nói đãi buôi cho xuôi lòng bạn
Kẻo sông giang hồ, khúc cạn khúc sâu

—o—

Nói đẩy đưa cho vừa lòng bạn
Con sông giang hà chỗ cạn chỗ sâu

—o—

– Chàng đi mô khuya khoắt đến giờ
Hay là câu cá thả lờ chi mô
– Không không có có mô mồ
Răng em đổ tiếng giang hồ cho anh
—o—
Cổ Đô thật chốn giang hồ
Ai đi đến đất Cổ Đô cũng nhìn
Trên bờ gió thổi rung rinh
Dưới sông sóng đánh rập rình thêm vui
Thuyền bè lên ngược xuống xuôi
Tiện đường buôn bán tiện nơi đi về
—o—

Trai tứ chiếng, gái giang hồ
Gặp nhau ta nổi cơ đồ cũng nên

—o—

Mười năm lưu lạc giang hồ
Một ngày tu tỉnh cơ đồ lại nên

—o—

Anh đây tài tử giai nhân
Vì tình nên phải dấn thân giang hồ
Nói đây có chị nằm đò
Mận xanh ăn vậy, đừng chờ đào non

—o—

Anh nay tứ hải giang hồ
Về đây sông nhỏ, sóng xô mặc lòng
Hỡi cô con gái chưa chồng
Trông con sào vắn má hồng đừng phai.

—o—

Đứng bên ni thấy chiếc thuyền năm ván
Ngó sang bên kia, thấy chiếc quán năm gian
Thuyền năm ván đang đợi người thương nhớ
Quán năm gian đang đợi người nhớ thương
Một em nói rằng thương,
Hai em nói rằng nhớ
Trách ông trời làm lỡ duyên anh
Anh ngồi gốc cây chanh
Anh đứng cội cây dừa
Nước mắt anh nhỏ như mưa
Ướt cái quần cái áo
Cái quần anh vắt chưa ráo
Cái áo anh vắt chưa khô
Thầy mẹ gả bán khi mô
Tiếc công anh lặn suốt giang hồ
Trời cao anh kêu không thấu
Đất rộng anh kêu nọ thông
Những người bòn của bòn công
Nam mô A Di Đà Phật, anh phủi tay không anh về.

QUÁ GIANG
Trầu têm một lá
Trình má biết cho
Một hai trót đã hẹn hò
Trẻ thơ trót dại đã theo đò quá giang
May ra chung quán chung làng
Thì câu tình nghĩa đá vàng cũng chung
—o—

GIANG SƠN

Giang sơn đâu anh hùng đó

—o—

Chẳng nên cơm cháo gì đâu
Trở về đốt bãi trồng dâu nuôi tằm
Giang sơn phó mặc hàng mâm,
Sấm chớp ì ầm phó mặc.

—o—

Trên đầu đội mũ giang sơn,
Mình thì bận áo bách diệp
Ngày dạo chơi miền sơn lí
Đêm mến cảnh chùa vô tu

Là ai? ăn mày
GIANG HÀ
Mênh mông một giải giang hà
Anh hùng lỡ vận biết là về đâu
—o—

Thanh tân vui thú giang hà,
Sao anh trẻ mãi không già hỡi anh?

Là con gì? Con trai
—o—
Cái sao Đẩu đổi về bên Bắc
Sông Giang Hà biết đâu đục, đâu trong
Đôi ta hẹn nhau tình vợ nghĩa chồng
Anh ra về để em ở lại,
Không khác nào con cá nó ẩn rong chờ mồi.
—o—
Giấy Tây bán mấy (tôi cũng) mua lấy một tờ
Đem về viết một phong thơ quốc ngữ
Dán trên trái bưởi, thả dưới giang hà
Cất tiếng kêu người trong nhà
Xuống sông vớt bưởi lên mà xem thơ
—o—
Trường đồ tri mã lực,
Sự cửu kiến nhân tâm.
Sen trong đầm lá xanh bông trắng,
Sen ngoài đầm bông trắng lá xanh.
Chim khôn lót ổ lựa nhành,
Gái khôn tìm chỗ trai lành kết duyên.
Vô dược khả y khanh tướng bệnh,
Hữu tiền nan mãi tử tôn hiền.
Bạc muôn khó chuộng bạn hiền sánh đôi.
Ở trên trời có ngôi sao Bắc Đẩu,
Ở dưới hạ giới có con sông Giang hà,
Sông Giang hà chảy ra biển rộng
Bắc đẩu tinh quay ngõng chầu trời,
Tôi thương mình lắm mình ơi,
Biết sao kể nỗi khúc nhôi ớ mình!
TAM GIANG

Nước ròng chảy thấu Tam Giang
Sầu đâu chín đỏ, sao chàng còn đây?

—o—

Đêm nằm bàng bạc ánh trăng,
Ngân Sơn bên đó, Mằng Lăng bên này
Thuyền xao bóng nước gió lay
Lòng em xáo động chàng hay chăng chàng?
Một dòng nước chảy Tam Giang
Bởi lời cha mẹ phụ phàng tình anh.

—o—
Tam Giang rộng lắm ai ơi
Có ai về Sịa với tôi thì về
Đất Sịa có lịch có lề
Có sông tắm mát, có nghề làm ăn
PHÁ TAM GIANG
Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang
– Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
Truông Nhà Hồ nội tán phá tan
Đường vô muôn dặm quan san
Anh vô anh được bình an em mừng

ĐẠI GIANG, TIỂU GIANG

Đại giang Đông Giàng,
Tiểu giang Lai Hạ

CHÂU GIANG

Mây giăng trên ngọn non Vồng
Em nhớ thương chồng đứng bến Châu Giang
Bến Châu Giang thuyền ngang sóng ngược
Đỉnh non Vồng mây trước mây sau
Ai về có nhớ lời nhau?

Núi Vồng Tên một ngọn núi cao nằm ở phía Bắc xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam hiện nay.

MĂNG GIANG

Núi rừng thì có hươu mang
Khe suối thì có măng giang
Chợ tỉnh có mụ bán hàng
Đò dọc có đò ngang
Biết bao giờ em được lấy chàng
Núi rừng trả lại cho hươu mang
Khe suối trả lại cho măng giang
Chợ tỉnh trả lại cho mụ bán hàng
Đò dọc trả lại cho đò ngang
Ai mô trả nấy, thiếp với chàng kết duyên

—o—

Măng giang nấu cá ngạnh nguồn
Đến đây thì phải bán buồn mua vui

Măng giang là măng của cây giang mà cũng là tên của một con sông ở Ứng Hoà Hà Nội, liên quan đến ngã ba Sa Giang – Cống Thần – Giẽ, và xuất hiện trong tích về Mẫu Tiên Dung Châu thờ ở đền Ba Sa ở làng Thần, Ứng Hoà, Hà Nội.

TRƯỜNG GIANG

Đêm trường đò ngược Trường Giang
Mái chèo đẩy nước, đầy khoang tiếng hò

—o—

Ai về nhớ tháp Chiên Đàn
Nhớ đình Mỹ Thạch, nhớ hàng cau xanh
Quê hương ai vẽ nên tranh
Trường Giang một dải nước xanh bốn mùa

Trường Giang : Tên một con sông chạy dọc theo bờ biển ở tỉnh Quảng Nam. Con sông này khá đặc biệt ở chỗ nó không hề có thượng lưu và hạ lưu mà cả hai đầu sông đều đổ ra biển. Đầu sông phía nam đổ ra biển tại cửa Hòa An (hay An Hòa), huyện Núi Thành, đầu sông phía bắc đổ ra biển tại cửa Đại, thị xã Hội An.

LAM GIANG

Hồng Sơn cao ngất mấy trùng
Lam Giang mấy trượng thì lòng mấy nhiêu

—o—

Sông Lam Giang càng ngày càng rộng
Núi Hồng Lĩnh mỗi bậc mỗi cao
Bấy lâu nay nguyệt tỏ với đào
Búp hoa tàn hết nhụy, chàng tính sao bây giờ?

—o—

BẠCH ĐẰNG GIANG

Đố ai trên Bạch Đằng giang
Làm cho cọc nhọn dọc ngang sáng ngời
Phá quân Nam Hán tơi bời
Gươm thần độc lập giữa trời vang lên?

Là ai?
Bạch Đằng giang là sông cửa ải
Tổng Hà Nam là bãi chiến trường
LẠI GIANG
Nước Lại Giang mênh mang mùa nắng
Dòng sông Côn lênh láng mùa mưa
Đã bao tháng đợi năm chờ
Duyên em đục chịu, trong nhờ biết sao!
—o—
Cơm hai bát, bát ăn bát để
Nước hai bình, bình uống bình mang
Anh đưa em về chốn Lại Giang
Lui chân trở lại, nước mắt tràn như mưa
Sông Lại Giang Tên dòng sông lớn thứ hai của tỉnh Bình Định, được hình thành từ sự hợp nhất của hai dòng sông là An Lão và Kim Sơn. Sông Lại Giang chảy theo hướng Tây Nam – Đông Bắc và đổ ra biển Đông qua cửa An Dũ.

HÂU GIANG, TIỀN GIANG

Rủ nhau đi tắm sông Sau
Áo đen che nắng, quạt Tàu che mưa

—o—

Thấy dừa thì nhớ Bến Tre
Thấy bông lúa đẹp thương về Hậu Giang

—o—

Thất Sơn ai đắp mà cao
Sông Tiền sông Hậu ai đào mà sâu

—o—

Sông Tiền sông Hậu cùng nguồn
Thuyền bè tấp nập bán buôn dập dìu

SÀI GIANG

Hòn Tàu, Hòn Kẽm, Hòn Vung
Ba hòn xúm lại đỡ vùng Quảng Nam
Non sông ai dựng ai làm
Dòng Sài Giang lượn khúc, cù lao Chàm xanh um

Ô GIANG

Trông lên hòn núi Nhạn
Đến bên hữu ngạn sông Đà
Chuông chiều đổi tiếng ngân nga
Chợt thấy ông Hạng Vũ vịn nhánh đa mà chuyền
Cô lái đò nhìn xuống nước cười duyên
Tưởng nàng Ngu Cơ đứng đợi ở miền Ô Giang

HỮU KỲ GIANG
Tiền Tam Thai
Hậu cũng Tam Thai
Tả Di Lĩnh Hai Vai
Hữu Kỳ Giang ba ngả
Trai trong làng trong xã
Đều rả rích giao hiền
Trai đèn sách luyện rèn
Gái tằm tơ bông vải
Ngã ba Phủ Cũng gọi là ngã Phủ hay Tam Kỳ Giang, ngã ba sông nơi sông La đổ vào sông Lam.

DANG

DANG TAY

Bướm bay hoài, không đậu vườn hoa
Hay là anh thấy mẹ cha em nghèo
Dang tay với chẳng tới kèo
Bổn phận em nghèo lấy chẳng đặng anh
—o—
Dang tay chiết nhánh mai vàng
Chút nhìn thấy bạn, hai hàng lụy rơi.
—o—
Dang tay khoát bạn: khoan thương!
Ta không phải nghĩa cang thường với bạn đâu
—o—

Em như quả bí trên cây
Dang tay mẹ bứt những ngày còn non

RANG

 

GIÀNG

ĐÒ GIÀNG

Trống đánh đò đưa
Trống giục đò đưa
Cô nàng đã có chồng chưa cô nàng?
Trống đánh đò Giàng
Trống giục đò Giàng
Có đi anh đợi, có sang anh chờ!

LÀNG GIÀNG

Vàng mã làng Giàng,
Chè lam Phủ Quảng.

—o—

Mùa về lại nhớ cót Giàng
Cách mấy ngày đàng cũng đến tìm mua

Dương Xá Tên Nôm là làng Giàng, nay thuộc xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Làng nằm bên dòng sông Mã, cạnh ngã ba Đầu. Đây là quê hương của Dương Đình Nghệ, người anh hùng đã khởi binh đánh đuổi quân Nam Hán giải phóng thành Đại La, giành quyền tự chủ cho đất nước Việt được 6 năm, và là bố vợ của Ngô Quyền.

ĐÔNG GIÀNG

Đại giang Đông Giàng,
Tiểu giang Lai Hạ

Đông Giàng Địa danh nay là một thôn thuộc xã Thượng Đạt, tỉnh Hải Dương, nằm ở ngạn Bắc sông Thái Bình.

CÚNG GIÀNG

Một cơn gió táp mưa sa
Non sông nổi giận, cỏ hoa đeo sầu
Gió mưa nghe vẳng bên lầu
Tưởng hồn nghĩa sĩ ở đâu ngang trời
Than ôi cũng một kiếp người
Một lòng yêu nước thương nòi xót xa
Non sông Hồng Lạc một nhà
Nhớ người ta phải hương hoa cúng giàng
Mực hòa máu lệ một chương
Khóc trang nghĩa dũng nêu gương muôn đời
Nhớ xưa liệt sĩ bốn người
Ở trong ban lính đóng nơi Hà thành
Đòi phen trận mạc tập tành
Thấy người xe ngựa, tủi mình non sông … 

GIÀNG DÊNH

Lênh đênh đã quá lênh đênh

Chiếc thuyền đại hải dàng dênh giữa vời

RÀNG

CHÀNG RÀNG

GIÁNG

GIÁNG HẠ

Ai mà nói dối với ai
Thì trời giáng hạ cây khoai giữa đồng
Ai mà nói dối với chồng
Thì trời giáng hạ cây hồng bờ ao

—o—

GIÁNG TRẦN

Nhớ đời thứ sáu Hùng Vương
Ân sai hăm tám tướng cường ngũ nhung
Xâm cương cậy thế khỏe hùng
Kéo sang đóng chặt một vùng Vũ Ninh
Trời cho thánh tướng giáng sinh
Giáng về Phù Đổng ẩn hình ai hay
Mới lên ba tuổi thơ ngây
Thấy vua cầu tướng ngày rày ra quân
Gọi sứ phán bảo ân cần
Gươm vàng, ngựa sắt đề quân tức thì
Thánh vương khi ấy ra uy
Nửa ngày sấm sét, tứ bề giặc tan
Áo thiêng gửi lại Linh san
Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên
Miếu đền còn dấu cố viên
Sử xanh, bia đá tiếng truyền tự xưa

RÁNG

Thừa mạ thì bán, chớ có cấy ráng ăn rơm

Ráng vàng trời nắng, ráng trắng trời mưa

Ráng đêm sinh chuyện
Vích hiện điềm lành

GIẢNG

GIẢNG – ĐỐ

Đố tục giảng thanh
Miệng thì chào anh, hai tay nâng đít

Là cái gì?
– Truyện Kiều em đã kể làu
Đố em kể được một câu ba càng
Kể sao cho được rõ ràng
Mảnh hương với lại phím đàn trao tay
Bấy lâu mới được một ngày
Dừng chân anh đố niềm tây gọi là
Nhân tình trong đạo chúng ta
Yêu nhau mới đố một và câu chơi
Em khôn anh mới thử lời
Em mà giảng được là người tài hoa
—o—
Gặp mình ta đố chuyện vui
Cái chi mà chát, cái chi mà nồng?
Cái chi mà ở dưới sông?
Cái chi trên đồng, chi ở rừng xanh?
Cái chi mà lại tu hành?
Cái chi mà ở một mình lắm con?
Cái chi mà lại tròn tròn?
Cái chi đẹp giòn, chỉ để cầm tay?
Mình ơi mình giảng ta hay
Mình mà giảng được, ta nay theo về
—o—
– Truyện Kiều anh giảng đã tài
Đố anh giảng được câu này anh ơi:
“Biết thân đến bước lạc loài
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”
– Tình chung nào phải ai xa
Chính chàng Kim Trọng vào ra sớm chiều.

GIẠNG

DẠNG

Đêm năm canh dĩa đèn khô cạn,
Trúc gầy mòn nhớ dạng cành mai;
Em thương ai thì nhớ nghĩa ai,
Chớ thấy non cao mà sấp mặt, thấy biển rộng sông dài mà xoay lưng

Chia sẻ:
Scroll to Top