VẠC LÀ GÌ ?

Loading

VẠC (động từ) 
Vạc là phân rã, phân tách về cấp đơn vị
– Vạc về vật chất là tách ra, rút ra, phân rã ra theo các lớp mô của một cơ thể sống từ da vào đến xương, Sừng (lông, móng, răng, tóc) và xương bao giờ cũng là cấp khó vạc nhất.
Hết nạc thì vạc đến xương
Trâu ác thì vạc sừng :
– Vạc về tinh thần là phân tích, làm cho rõ ràng, cho vỡ lẽ
Anh nói mần sao cho vạc lẽ ra
Để em về đi chợ cho cha mẹ già nghỉ ngơi
Đồng vạc
– Đồng vạc là quá trình phân tách và phân rã, cả vật chất và tinh thần
– Đồng vạc chính là quá trình chuyển hoá xảy ra với một người an giấc ngàn thu trong mộ ngoài đồng, trong hầm mộ, lăng mộ, một người chết siêu thoát, hoá kiếp, hoá thần, hoá thánh hay đi vào trạng thái Niết Bàn.
—o—o—o—
VẠC (TÊN LOÀI CHIM)
Vạc (danh pháp hai phần: Nycticorax nycticorax) là một loài chim thuộc họ Diệc. Chim trưởng thành dài khoảng 64 cm và nặng đến 800 g. Đầu và lưng có màu đen, phần thân còn lại màu trắng hoặc xám, mắt đỏ, chân ngắn màu vàng. Chim non màu nâu, đốm trắng hoặc xám.
Loài vạc thường kiếm ăn vào ban đêm (ngược với loài cò).
Môi trường sinh sản của vạc là những vùng đất ngập nước mặn và ngọt trên khắp thế giới. Vạc làm tổ thành đàn trên bệ que cây trong một nhóm cây hoặc trên mặt đất ở những vị trí được bảo vệ như đảo hoặc bãi lau sậy. Mỗi tổ có từ ba đến tám quả trứng.
Vạc thường đứng yên ở mép nước và chờ đợi để phục kích con mồi, chủ yếu vào ban đêm hoặc sáng sớm. Chúng chủ yếu ăn cá nhỏ, động vật giáp xác, ếch nhái, côn trùng sống dưới nước, động vật có vú nhỏ và chim nhỏ.
Chúng nằm trong số bảy loài diệc được quan sát thấy câu cá bằng mồi; dụ hoặc đánh lạc hướng cá bằng cách ném các vật nổi có thể ăn được hoặc không ăn được vào nước trong phạm vi nổi bật của chúng – một ví dụ hiếm hoi về việc sử dụng công cụ ở các loài chim.
– CÒ VẠC : Trong ca dao, tục ngữ, vạc là loài chim đối xứng với cò
Có con sáo đậu bờ rào
Nhìn em tưới nước hát chào líu lo
Ngoài kia con vạc con cò
Ở trong bờ ruộng cũng thò đầu coi
Trời đừng nắng lắm ông ơi
Rau con nó mệt nữa rồi nó đau
Cũng vì thương quý vườn rau
Nên em thương cả cái gàu tre nan
Cái cò cái vạc
Cái nhác cái lười
Rủ nhau đi chơi
Ba nơi bốn chốn
Hay trốn việc nhà
La cà ruộng, hói
Tối nằm nhịn đói
Đất hỡi trời ơi!
Cho tôi nắm xôi
Không thời tôi chết
– nếu cò tiêu biểu cho cánh đồng ban ngày thì vạc tiêu biểu cho cánh đồng ban đêm
Trời sanh, vạc chẳng hay lo
Bán đất cho cò, vạc phải ăn đêm
– Chân cò dài, bước chân cò tiêu biểu cho sự vất vả, lặn lội, gánh vác chồng con, thì chân vạc ngắn, vạc tiêu biểu cho sự thanh thơi, vô lo nghĩ, có bao nhiêu ăn hết bấy nhiều, ăn nhiều hơn có, ăn nhiều hơn làm
Làm thân con vạc mà chẳng biết lo
Bán đồng cho cò phải đi ăn đêm
– vạc trường thành có màu đen trắng, con non màu nâu, cò thì màu trắng hoặc màu đen (cò hương) hoặc màu nâu (cò bợ)
– vạc tượng trưng cho vận hành thời gian, đặc biệt là canh giờ đêm (vạc điểm canh, vạc trở canh, vạc cầm canh, vạc tuần canh), cò tượng trưng cho không gian cánh đồng (con cò bay lả bay la, bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng)
Đêm nằm nghe vạc trở canh
Nghe sư gõ mõ, nghe anh dỗ nàng
Đêm nằm nghe vạc trở canh
Nghe chim dỗ sáo, nghe anh dỗ nàng
Đêm nằm nghe vạc trở canh
Nỉ non tiếng dế như anh dỗ nàng
Đêm nằm nghe vạc cầm canh
Nghe chuông gióng sáng, nghe anh dỗ nàng
Đêm nằm nghe vạc điểm canh
Nghe chim rủ rỉ chuyện anh với nàng
Tùng tùng tùng tùng
Đánh ba hồi trống
Sắp quân cho chỉnh
Phượng hoàng thống lĩnh
Bạch hạc hiệp đồng
Tả chi thì công
Hữu chi thì sếu
Giang cao ngất nghểu
Đi trước tiên phong
Cả mỏ bồ nông
Đi sau tiếp hậu
Sáo đen, sáo sậu
Ran giục đôi bên
Chú quạ thông tin
Mang thư đi trước
Một đàn vịt nước
Chú két, chú le
Sắm sửa thuyền bè
Cho quân trẩy thủy
Còn loại bé tí
Chim chích chim ri
Bé mọn biết gì
Ở nhà coi sóc
Chú cò, chú cóc
Coi sóc các làng
Chèo bẻo nổ năng
Bầu cho làm huyện
Đêm hôm đi tuần
Phó cho chú vạc
Chú ngỗng nghếch ngác
Như thể đàn bà
Chú vịt chú gà
Nhắc võng ông già
Trèo lên núi Triều,
Giặc thấy đã nhiều,
Chạy như cun cút!
– tiếng vạc, to, tương trưng cho xúc cảm và khát vọng cá nhân, tiếng cò nhỏ, đại diện cho công việc và trách nhiệm gia đình
Đêm nằm nghe vạc kêu sương
Nhớ ai ở chốn sa trường xa xôi
Đêm nay cánh vạc về đâu
Khói sương chưa dễ phai màu thời gian
– Anh đi đâu giục ngựa, buông cương
Mải mê con mèo mới mà quên vợ thương ở nhà
– Gió đưa cánh vạc la đà
Anh nói đẩy đưa cái miệng, chớ vợ ở nhà anh thương hơn.
– Cò có tính dưỡng nuôi, vạc có tính đối kháng và chiến đấu
Dì sẻ bé con
Ở nhà coi sóc
Chú cò chú cốc
Sắm sửa ra quân
Đêm hôm đi tuần
Đã có chú vạc
– Cò và vạc có thể phối hợp liên hoàn
Bắt cá mà gả cho cò,
Nửa đêm con vạc đưa đò rước dâu.
Cưới về buổi sáng hôm sau,
Mẹ cá buồn rầu ngồi gục nỉ non
Thấy cò đang rỉa thịt con
“Cò ơi, cò hỡi… bất nhơn thế này!”
– BỘ BA : CÒ, VẠC, NÔNG
Cái cò, cái vạc, cái nông
Cùng ăn một đồng nói chuyện giăng ca
Muối kia đổ ruột con gà
Mẹ mình chẳng xót bằng ta xót mình.
Cái cò cái vạc cái nông
Sao mày giẫm lúa nhà ông hỡi cò?
Không, không! Tôi đứng trên bờ
Mẹ con nhà vạc đổ ngờ cho tôi
Chẳng tin ông đứng ông coi
Mẹ con nhà nó còn ngồi đấy kia.
Cái cò, cái vạc, cái nông
Ba con cùng béo, vặt lông con nào?
Vặt lông con vạc cho tao
Hành, răm, mắm muối bỏ vào mà thuôn
Cái cò cái vạc cái nông
Ba con cùng béo vặt lông con nào
Vặt lông con cốc cho tao
Tao nấu tao nướng tao xào tao ăn
– Vạc đôi khi được đối xứng với vịt, là con chim tự do và con chim chăn thả ngoài đồng
Quặc quặc, quạc quạc
Con vịt, con vạc
Có thương em tao
Thì lội xuống ao
Bắt ba con ốc
Thì lội xuống rộc
Bắt năm con rô
Thì lội xuống hồ
Bắt mười con diếc
—o—o—o—
VẠC (VẬT CHẮC ĐỰNG CÓ TÍNH MỘC) :
Vạc giường, vạt giường, hay giát giường, phản giường. Nói vạc giường là làm bằng tre, nói giát giường thường là thường làm bằng gỗ. Giường tre nói chung không phân biệt giát và giường mà làm liền luôn. Đó gọi là cái vạc (phương ngữ).
Nếu phải căn duyên nhà rách, vách nát, vạc sập, nước ngập, anh cũng ngồi
Không phải căn duyên dù nhà ngói đỏ, ngựa gõ, ngựa dầu, anh cũng không ưng
Anh đau tương tư nằm trên bộ vạc
Hồn anh thất lạc xuống dưới Diêm đình
Ông vua phán quở: Anh vì tình thác oan
Em ơi, một mai anh chết, em đừng có đến để tang
Bởi tại nơi em mà thiên hạ luận bàn.
Anh đau tương tư nằm trên bộ vạc
Hồn anh thất lạc, thác xuống Diêm đình
Diêm Vương ổng hỏi sự tình,
Tui lụy vì tình, tui mới thác oan.
—o—o—o—
VẠC (VẬT CHỨA ĐỰNG CÓ TÍNH KIM)
Vạc là một cái nồi hầm hoặc cái chảo lớn, sử dụng nước hoặc dầu để hầm. Vạc thường được đúc bằng đồng và còn thường được gọi là vạc đồng.
– Vạc có thể được dùng để nấu cơm hoặc thức ăn cho nhiều người trong những dịp lễ hội.
– Vạc có thể dùng để hành hình : phạm nhân bị cho vào vạc dầu sôi.
Nhiều vật dụng có hình dạng, cấu tạo và mục đích sử dụng tương tự như vạc đã xuất hiện nhiều nơi trên thê giới, người ta gọi là “nồi hầm”. Trong văn hóa châu Âu, vạc được các phù thủy dùng để nấu các loại thuốc có phép lạ, giống như thuật luyện đan của châu Á. Vật có hình dạng của vạc và bằng đồng, gắn với các biểu tượng văn hóa, được tìm thấy ở Thụy Điển, ứng với thời kỳ đồ đồng, hay Đan Mạch (vạc Gundestrup).
VAC ĐỒNG
Vạc đồng được trưng bày là biểu tượng quyền lực đại hình, quyền lực hành pháp, quyền lực của Diêm Vương. Trong kinh thành Huế có các vạc của triều Nguyễn. Các thời đại vua khác ở Việt Nam cũng có vạc, như vạc Phổ Minh đời nhà Trần.
Vạc Đinh lại trở về Lê
Nàng Dương khăn gói lại về chánh cung
VẠC DẦU
Vạc dầu là vạc hầm bằng dầu, nên vạc dầu nói chung phải làm bằng đồng vì nhiệt độ sôi của dầu cao hơn nước. Vì dầu và nước là hai dung môi cơ bản, cái gì không tan trong nước thì tan trong dầu và ngược lại, nên vạc có thể hầm nhừ và làm tan rã gần như tất cả mọi thứ.
Vạc dầu là dụng cụ hành hình nổi tiếng của Địa phủ.
Vạc dầu đôi khi cũng được sử dụng để hành hình trên dương gian.
Nói chung vạc dầu là biểu tượng của địa phủ.
VẠC TRONG KỸ NGHỆ
Vạc trong kỹ nghệ giấy : dùng để nấu cây dó làm giấy
Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa vạc nấu dó, kìa sông đãi bìa
Kìa giấy Yên Thái như kia
Giếng sâu chín trượng nước thì trong xanh
Đầu chợ Bưởi có điếm cầm canh
Người đi kẻ lại như tranh họa đồ
Cổng chợ có miếu thờ vua
Đường cái chính xứ lên chùa Thiên Niên
Chùa Thiên Niên có cây vọng cách
Chùa Bà Sách có cây đa lông
Cổng làng Đông có cây khế ngọt
Con gái Kẻ Cót thì đi buôn xề
Con trai làng Nghè dệt cửi kéo hoa
An Phú nấu kẹo mạch nha
Làng Vòng làm cốm để mà tiến vua.
Họ Lại làm giấy sắc vua
Làng Láng mở hội kéo cờ hùng ghê.
Vạc dầu trong kỹ nghệ sừng : Các loại lược sừng bán ngoài thị trường là lược sừng trâu chín. Lược sống khắc và mài thô từ sừng trâu được nhúng dầu sôi, rồi ép khuôn. Sừng trâu mềm ra trong dầu nhưng vẫn dẻo dai, vì dầu cũng là chất dưỡng và liên kết tự nhiên có sẵn trong sừng trâu.
Lưu ý trâu là một con vật có tính đất, và là một biểu tượng của Địa Phủ. Ngưu Ma Vương là vua của Địa Phủ, còn đầu trâu là quỷ canh giữ các cửa đại ngục và vận hành các đại hình dưới địa ngục.
—o—o—o—
VẠC : Bánh vạc hay bánh quai vạc, có nơi gọi là bánh gối
Bún bò bà Chỉ tiếng đồn,
Bánh bao bánh vạc mì tôm tuyệt vời
—o—o—o—
VẠC (ĐỊA DANH)
CÁC LÀNG VẠC
Làng VẠC (Làng Hoạch Trạch, huyện Bình Giang, Hải Dương) : Đây là làng nghề lược bí (lược tre) của Xứ Đông. Làng Vạc xưa có tên là Hoạch Trạch. “Hoạch” nghĩa là cái vạc, còn “trạch” nghĩa là ơn huệ, Hoạch Trạch nghĩa là “ơn cái vạc thổi cơm”. Các cụ vẫn nhắc lại rằng, làng từng nấu cơm nuôi quân của vua bằng vạc nên từ đó mới có tên này. Về sau, người ta gọi tắt thành làng Vạc.
Làng VẠC : Một thôn thuộc xã Trà Sơn, tổng Vận Quy, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Thiên ngày trước, nay là một phần của xã Thiệu Đô, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Chàng về Vạn, Vạc chàng ơi
Con chàng bỏ đói ai nuôi cho chàng?
Nhất tơ làng Hồng, nhất bông làng Vạc
Tơ làng Hồng, bông làng Vạc
Làng Vạc ăn cỗ ông nghè
Làng Vận, làng Chè kéo đá ông Đăng
Làng VẠC, phường Long Sơn, thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An, Việt Nam: Làng Vạc là di chỉ khảo cổ gồm một số quan tài chứa di vật của nền văn hóa Đông Sơn thời đại đồ đồng nằm. Giới khảo cổ đã tìm thấy được gần năm mươi mẫu dao găm, và nhiều mẫu trong số này có chuôi với hình người được gắn trên đầu vỏ bọc. Trong một trong những khúc dao găm phức tạp hơn có khắc hình dáng của một người đàn ông được phân biệt rõ ràng với vòng tay, hoa tai, khố có hoa văn và một lọn tóc dài được cố định bằng hình một con voi. Sự phong phú của hàng hóa bằng kim loại được tìm thấy ở di chỉ này có thể là do nó nằm gần những mỏ thiếc trong vùng. Người ta còn xác định niên đại bằng cacbon phóng xạ với ước tính dao động khoảng 80 năm tính từ năm 850 SCN, trong khi số khác cho rằng vật thể khu mộ táng có niên đại từ năm 83 TCN đến năm 225 SCN.
Đầm VẠC là một đầm nước thuộc thành phố Vĩnh Yên ở trung tâm tỉnh Vĩnh Phúc, Việt Nam. Đây là một đầm tự nhiên có nhiều nhánh, diện tích mặt nước là 255 ha và dung tích khoảng 8 triệu m³ nước. Đầm thông với sông Phan, một phụ lưu của sông Cà Lồ. Đầm có vai trò cung cấp nước sinh hoạt, nước tưới nông nghiệp cho các hộ dân thành phố Vĩnh Yên và vùng lân cận. Trong đầm còn có nguồn lợi thủy sản phong phú với nhiều tôm cá, trong đó có đặc sản tép dầu Đầm Vạc nổi tiếng. Hiện khu vực ven đầm đã được đầu tư xây dựng các khu nghỉ dưỡng và sân golf.
CÁC LÀNG HOẠCH
Các làng có tên nôm là Vạc hay Vác thường có tên chữ là Hoạch, bởi vì hoạch là cái vạc nấu cơm
– Hoạch Trạch (làng Vạc Hải Dương với nghề làm lược bí)
– Vạn Hoạch (làng Vạc Thanh Hoá nổi tiếng với nghề trồng bông)
– Cạnh Hoach (làng Vác với nghề làm quạt giấy, lồng chim)
Lược Hoạch Trạch có công nhỏ nhặt,
Hương Dương Điều ngào ngạt gió đưa.
Chàng đi Vạn Hoạch chàng ơi
Con chàng bỏ lại, ai nuôi cho chàng?
Hỡi cô thắt giải bao xanh,
Có về Canh Hoạch với anh thì về,
Canh Hoạch ít ruộng nhiều nghề,
Yêu nghề quạt giấy hay nghề đan khuya?
VỠ VẠC QUÁ KHỨ & KẾ HOẠCH TƯƠNG LAI
HOẠCH là một chiến lược cho tương lai, nhưng khác với chiến lược mà mang nặng tính tinh thần và cách thức vận hành, hoạch hướng đến kết quả cụ thể, lượng hoá được về mặt vật chất, không gian, thời gian và do đó đưa ra những sự chuẩn bị cụ thể về nguồn lực (con người, vât chất và kỹ thuật tương ứng ) cần triển khai để đạt được các kết quả mục tiêu đã đặt ra đó.
– Kế hoạch
– Quy hoạch
– Hoạch định
Nói chung chiến lược thường mang tính dài hạn, đi trước, rồi các kế hoạch cụ thể cho từng thời kỳ sẽ được đưa ra.
VẠC ngược lại liên quan đến sự phân rã một cấu trúc tổng thể đã có đến đơn vị và phân tách một vân đề tinh thần cho nó rõ ràng, để tiêu hoá
– Vỡ vạc
– Hết nạc vạc đến xương
Vậy vạc thật sự có giống hoạch ?
– Vạc liên quan đến phân rã một kết quả thống nhất của quá khứ
– Hoạch liên quan đến tạo ra một kết quả thống nhất ở tương lai
Giống mà không thực sự giống
—o—o—o—
VAC ĐẤT NƯỚC
Hầm mộ, lăng mộ và nghĩa trang nghĩa địa dù theo đia táng, thuỷ táng, hoả táng hay thiên tàng đều có trạng thái vạc
Các nghĩa địa tự nhiên của các loài vât trong rừng và dưới biển
—o—o—o—
VẠC SINH HỌC
Trong cơ thể, tất cả các bộ phận có năng lực hầm và tiêu thì đều là vạc sinh học tự nhiên
– Xương chậu
– Da dày
– Dạ con
—o—o—o—
VẠC TỰ NHIÊN CỦA TRÁI ĐẤT
Trên Trái đất những địa điểm có trang thái hầm và tiêu thì cũng là các dạng vạc, hay huyệt Diêm Vương.
– Có những vạc lộ như núi lửa hay nguồn suối nước nóng.
– Có những vạc ẩn và rất bí mật.
Vạc lớn nhất của Trái đất là lõi lửa tâm Trái đất.
Trong thập điện Diêm Vương, Đệ nhất điện là của Tần Quảng vị Minh Vương trông coi địa ngục dưới núi Ốc Tiêu. Núi Ốc Tiêu là núi lửa dưới đáy đại dương.
—o—o—o—
Chia sẻ:
Scroll to Top