LƯỢC BÍ TRE VÀNG LÀNG VẠC

Loading

Lược tre làng Vạc
Hoạch Trạch – ngôi làng cổ tích
Nói đến truyền thống khoa bảng của huyện Bình Giang, Hải Dương, người Xứ Đông thường tự hào kể về làng Mộ Trạch, nơi được mệnh danh là “Lò tiến sĩ xứ Đông”. Khi nói về lễ hội truyền thống, mọi người lại nhắc đến Lễ Chữ ở xã Bình Minh, và khi nói về nghề truyền thống, nghề đầu tiên mà người dân nơi đây nhắc đến là nghề làm lược tre ở làng Vạc.
Lược Vạc không chỉ nổi tiếng ở Xứ Đông, mà còn trở thành hàng hóa chuyển tới Kẻ chợ (Thăng Long). Cũng từ đó một số người dân làng Vạc đã ra Thăng Long để tổ chức sản xuất lược tại chỗ, tạo thành một phường nghề. Đây là tiền thân của phố Hàng Lược của Hà Nội ngày nay. Như vậy, từ xa xưa, người làm lược làng Vạc Xứ Đông đã tới Kẻ Chợ, hình thành một phường nghề trong ba mươi sáu phố phường của Hà Nội ngày nay.
Lược làng Vạc có ba loại chủ yếu đó là:
– Lược làm theo phong cách Trung Quốc có in chữ nho trên thân lược;
– Lược Bí tre vàng – cây lược vàng làm theo phong cách Việt Nam có in tên người làm hoặc biểu tượng trên thân lược;
– Cây lược Ấu làm riêng cho các thiếu nữ và bé gái theo phong cách dân gian.
Hình ảnh cây lược vàng đã từ lâu gắn bó với hương bưởi, mái tóc dài đen nhánh, mát lạnh. Cây lược cũng là vật kỷ niệm trao tăng của trai gái khi có người đi xa, có người ra trận …
Nguyên liệu làm lược gồm năm loại chính:
1. Nan làm răng lược bằng một loại tre rừng, to gần bằng tre hoá, mỏng mình nhưng cật dày, dóng dài từ 50-80cm, phơi khô không dòn như nứa, không dẻo như dang, đáp ứng yêu cầu của răng lược, cứng mà dẻo vừa phải, chải mái tóc dầy không gẫy mà vẫn ăn da đầu. Tre lấy ở rừng về, chặt bỏ đốt, pha thành từng thanh ban rộng 2-3cm. tước bớt bụng, phơi tái để chống mốc và giảm trọng lượng chuyên chở, bó thành từng bó 500 thanh một. Hai bó 1000 thanh, gọi là một chục. Khâu sơ chế nguyên liệu làm ngay nơi khai thác theo hợp đồng.
2. Nẹp lược làm bằng tre vầu, còn có tên là cây Bương. Vầu mỏng mình, nhưng cứng, đóng dài 45-60cm, cũng khai thác ở miền núi, pha thành thanh bản rộng 5cm, sơ chế như thanh nan lược, đem phơi nắng. Vầu càng già, nẹp càng tốt phơi nắng có màu vàng ngà. Nguyên liệu thường phải dự trữ hàng năm và lược làm xong chưa hẳn đã bán được ngay nên dễ bị mọt nẹp. Để chống mọt, người ta ngâm vầu xuống ao khoảng hai tuần. Ngoài nẹp tre, đôi khi còn dùng nẹp gỗ, xương, sừng để làm nẹp lược thửa.
3. Sơn gắn lược: là sơn ta lấy từ nhựa cây Sơn, hiện nay trồng ở trung du, nhất là Vĩnh Phú. Sơn 70 đến 80 độ gắn lược chặt và bền. Độ sơn tình theo số lượng sơn nguyên chất trong một đơn vị trọng lượng. Sơn để lắng, phần trên trong và lỏng dùng để sơn nẹp cho màu đen bóng rất đẹp, phần dưới đặc dùng để gắn nẹp. Trước khi gắn, sơn được pha với tro trấu tán nhỏ theo tỉ lệ 1:1. Một cân sơn trung bình gắn được 1.000 cái lược. Nguyên liệu này tuy không dùng nhiều nhưng rất cần, hiện nay chưa có nguyên liệu nào gắn chặt, bền bằng sơn ta.
4. Chỉ ken mền lược: là chỉ dùng để ken các nan lược lại với nhau làm thành mềm lược trước khi gắn nẹp. Chỉ bằng sợi bông thường, xe săn vừa phải, to bằng ba sợi chỉ thêu khoảng 0.5mm. Chỉ này do làng Phú Khê cùng xã sản xuất bán cho làng Vạc.
5. Xương làm hom lược: Hom lược là hai răng lược ngoài cùng to và cứng. Hom làm bằng xương sườn trâu bò, xương này do những người làm nghề hàng rong mua nhặt trong các làng hay lò mổ bán cho người làm hom. Hom lược do người làng Mộ Trạch tục gọi là làng Chằm sản xuất bán cho làng Vạc. Làng Chằm cách làng Vạc một cách đồng hẹp về phía đông. Nay nhiều gia đình làm lược đã tự sản xuất được loại hom này. Người ta đã thử sản xuất hom nhựa thay xương nhưng không bền chắc, khách hàng không ưu dùng.
Trước kháng chiến chống Pháp, người làng La Phù tỉnh Hà Đông cũ, dùng xe bò chở nan và nẹp sơ chế đến tận làng Vạc bán cho người sản xuất. Chiến tranh bùng nổ, họ không đến nữa. Từ đấy người làng Vạc phải lên miền núi khai thác nguyên liệu. Từ ngày hợp tác hóa nông nghiệp, làng Vạc xây dựng hợp tác xã thủ công, lập đội chuyên thu mua và khai thác nguyên liệu theo giấy phép của cơ quan Nhà Nước. Người làm việc này hưởng theo công điểm chung của hợp tác xã. Do giá trị ngày công thấp, không tương xứng với sức lao động bỏ ra, nên họ không tích cực tìm nguồn và khai thác nguyên liệu có chất lượng, vì thế số lượng và chất lượng không đảm bảo cho sản xuất.
Hiện nay, hợp tác xã có 7 tổ thu mua, khai thác nguyên liệu. Thực hiện hợp đồng khai thác, thu mua nguyên liệu của hợp tác xã với các lâm nông trường và hợp tác xã miền núi. Vốn mua hàng do xã viên góp cổ phần. Nguyên liệu chở bằng ô tô về sân hợp tác xã. 40% phân phối cho xã viên có cổ phần theo giá mua cộng phí vận chuyển, còn lại bán cho xã viên theo giá thoả thuận. Mỗi chuyến hàng, tổ khai thác phải nộp một khoản lệ phí cho hợp tác xã và chính quyền địa phương góp phần xây dựng công quỹ. Hình thức này tuy chưa ổn định nhưng phục vụ kịp thời cho sản xuất.
Qui trình sản xuất
Công cụ sản xuất và quá trình công nghệ của lược tre khá ổn định về loại hình thức công cụ và trình tự sản xuất. Từ nguyên liệu sơ chế đến khi hoàn thành cái lược phải qua năm công đoạn sản xuất.
1. Công đoạn tạo mềm
– Phơi nan tạo màu vàng: Thanh nan sơ chế đan lóng mốt, ba nan dọc, đan ngang đan đầy thì thôi. Mê nan đem phơi khoảng bẩy nắng. Nan có màu vàng đều không nốm đốm là được. Mưa rào, mưa cơn không phải chạy. Mưa rầm kéo dài phải cất vào nơi khô ráo tránh mốc và mọt
– Pha nan: Thanh nan đủ nắng, lấy dao pha chẻ nhỏ bằng hai răng nan lược, bản rộng khoảng 6mm, lột bớt bụng, để lại độ dày khoảng 2 mm. Phần bụng tách ra dùng làm đóm bó nan.
– Kéo bóc: Đóng dao pha dọc xuống bàn kéo bóc. Lưỡi quay vào phía trong, song song với mặt đinh vuông, cao 10cm, cạnh nhẵn quay về phía lưỡi dao, cách lưỡi dao khoảng bằng độ dày của răng lược khoảng 1 mm. Đưa khoảng giữa thanh nan vào khe dao của đinh sắt, bụng nan về phía lưỡi dao, kéo mạnh ngược chiều lưỡi dao, đảo lại kéo nốt nửa còn lại. Bàn kéo bóc là một thớt gỗ tròn đường kính khoảng 30cm, cao 20cm bằng gỗ thẳng thớ và xốp, đóng dao xuống nông, sâu dễ dàng để thay đổi phần lưỡi tác dụng.
– Kéo cạnh: Thanh nan kéo bóc xong, chẻ đôi thành nan lược, đưa vào bàn kéo cạnh. Bàn kéo cạnh tương đương như bàn kéo bóc. Đóng hai dao kéo cạnh thẳng góc xuống bàn, hai lưỡi dao tạo thành góc 30 độ, khoảng cách bằng chiều rộng nan lược khoảng 2mm. Đặt nan nằm ngang, hai cạnh sát vào lưỡi dao dược ép bởi que đè, cách kéo tương đương như kéo bóc. Dao kéo cạnh giống như dao pha dài 25cm, nhưng chuôi liền và ngắn.
– Kéo dẹp: Kéo cạnh xong chuyển sang kéo dẹp. Kéo chiều bụng của nan lược một lần nữa cho phẳng, nhẵn và đều. Kéo dẹp dùng trên bàn kéo bóc. Điều chỉnh dao pha tiến gần đinh sắt để khoảng cách bằng độ dày nan lược khoảng 0.5mm. Đưa chiều bụng của nan về phía lưỡi dao, kéo như kéo bóc. Nan kéo tốt thì khi khoanh lại thành một hình tròn đều.
Pha nan, kéo bóc, kéo cạnh, kéo dẹt cần người có sức khoẻ, tinh mắt, thông thường là đàn ông đảm nhiệm. Muốn kéo nhẹ tay, người ta thường xấp nước nan khi làm các động tác trên.
– Bẻ nan: Kéo dẹt xong đưa nan sang khung bẻ. Khung bẻ giống như một khung thêu nhỏ, làm bằng gỗ nhẹ, dài 30cm rộng 6cm. Mỗi thanh dọc được đóng bằng hai thanh gỗ nhỏ, giữa để một khe hở 2.5mm. Thanh bên trái đóng nẹp phía ngoài để đón chân nan. Khi bẻ nan, tay trái cầm khung, tay phải cầm dao bẻ và nan. Lao nan từ phải sang trái, qua khe hở thanh dọc, chạm nẹp đón chân nan ở bên trái thì bẻ nan bằng dao bẻ, sát phía ngoài thanh dọc bên phải. Dao bẻ bằng thanh sắt mỏng 20x3cm.
– Bó nan: Nan bẻ đầy khung đưa sang bàn bó. Bàn bó là một miếng gỗ hình chữ nhật, kích thước trung bình 13x6x2cm, đóng hai đinh sắt không mũ, cách nhau 20cm. Nan xếp thành ba lớp dùng đóm buộc lại. Bẻ và bó nan, phần lớn do các cụ bà và các cháu nhỏ từ 6 đến 10 tuổi làm.
– Ken mền: Dùng chỉ bông kén vào các nan lược đã bẻ vào 2 hoặc 3 thép có độ dầy và chiều dài bằng một cái lược gọi là ken mền. Ken mền trên bàn ken bằng gỗ dài 50cm, rộng 30cm, cao 30cm, có giá để nan. Mặt bàn ken giống như khung bẻ, nghiêng theo chiều dọc 20 độ. Phía cuối bàn gen có then gài đầu thép trước khi ken. Mặt bàn ken có vạch cữ, khi ken đến đấy thì dừng lại, không phải đo và đếm nan cho một nền lược. Buộc chỉ vào đầu thép rồi bắt đầu ken, lùa nan lược từ phải sang trái qua khe thép, chân nan chạm nẹp bên phải thì dừng lại, nan để dựng chiều ngang, quấn chỉ một vòng qua nan và thép. Các nan sau lập lại như vậy. Mền Lược thường ken hai đường, lược kỹ ken 3 đường chỉ. Khâu này đa số do phụ nữ và các em từ 11 đến 15 tuổi làm. Người ken nhanh một ngày được 100 mền.
2. Công đoạn tạo nẹp
– Kéo cạnh nẹp: Các thanh nẹp bằng vầu, ngâm xong phơi khô, chẻ thành nẹp thô rộng khoảng 17mm, bóc bớt bụng để độ dầy lớn hơn độ dầy của nẹp một chút khoảng 7cm. Cách kéo như kéo cạnh nan lược, nhưng nẹp lược cứng khi kéo dễ bật lên, vì thế tay trái phải cầm nan đè nẹp xuống, tay phải kéo mới êm tay và chính xác. Nẹp sau kéo cạnh có độ rộng 12mm.
– Kéo bụng: Thanh nẹp được chuyển sang bàn kéo bụng. Kéo bụng giống như kéo bụng thanh nan, chỉ khác ở chỗ tay trái điều chỉnh khoảng cách dao, tay phải kéo. Nẹp sau kéo bụng có độ dầy 5mm Kéo bụng có thể dùng bào để thay thế.
– Rứt nẹp: Cắt nẹp bằng cưa trên bàn cắt có cữ để cắt đầu nẹp phẳng và dài bằng nhau. Nẹp sau cắt dài 10cm.
– Bào Bụng nẹp: Bàn bào bằng gỗ, có hai lỗ song song, kích thước bằng kích thước nẹp. Để hai nẹp xuống lỗ, cho chiều cật xuống dưới, phần bụng còn thừa dùng bào bào phẳng. Nếu làm lược kỹ phải xoi thêm rãnh ở giữa nẹp. Nẹp sau bào có độ dầy 5mm bụng phẳng là được.
3. Công đoạn tạo Thân lược.
– Chuẩn bị mềm gắn lược: mềm được sửa bằng, vuông vắn và đan hai Hom xương vào đầu mềm.
– Gắn lược: dùng Bay phiết sơn vào nẹp, áp nẹp vào mềm, cứ hai nẹp cho một mềm, áp nẹp giữa mềm lược.
– Bội đầu: lược gắn xong, hai đầu còn trống phải bôi sơn đầu lược để giữ hom lược cho chắc chắn.
– Sấy khô: sau khi gắn xong lược được sấy khô tự nhiên khoảng 24 giờ là khô, muốn khô nhanh đem lược vùi vào bếp tro ấm khoảng 8 giờ là khô. Kiểm tra lược khô chưa bằng cách gõ hai cái lược vào nhau có tiếng kêu cách cách là được.
4. Công đoạn mài răng lược.
– Chặt lược: dùng dao chặt hai bên cạnh lược sao cho lược có hình chữ nhật, bề rộng lược sau chặt khoảng 54 mm.
– Lạo lược: dùng lạo cạo hai bên mặt răng lược một bên phẳng một bên cong để răng lược có hình gai Bồ kết, lược được tạo răng thô có độ nhọn 0.3mm.
– Mài đá quay: dùng đá quay 01 mm mài bằng máy quay bằng môtơ hoặc mài bằng tay, đánh hết làn cạo là được.
– Đánh giấy giáp: dùng gấy giáp 00 mài hai bên răng lược, đánh hết làn mài đá, đầu răng lược nhọn 0.2mm có độ tròn là được.
– Đánh bóng: dùng vỏ trấu, lá chuối hoặc cùi dừa mài cho hết vết đánh giấy giáp, răng lược nhẵn bóng sờ mát tay, bổ thử lên đầu thấy lược bắt tóc cắn da đầu là được.
5. Công đoạn đóng giói.
– Kiểm tra: Kiểm tra, sửa lại những lỗi sước nhỏ trên nẹp và răng lược.
– Bao gói: bó 50 cái lược thành 1 bó gồm 6 hàng 5 cái đan xen với 5 hàng 4 cái. gói bó bằng lạt giang 1lạt dọc, 4 lạt ngang. Đến đây công việc sản xuất cây lược vàng đã hoàn thành, lược được dân làng đem ra chợ làng bán.
(Người Xứ Đông sưu tầm và biên tập)
Chia sẻ:
Scroll to Top