LỜI THỀ CỦA CÁC BÀ MỤ & LỜI THỀ CỦA CÁC ÔNG THÀY

Loading

LỜI THỀ ĐỒNG HÀNH SINH TỬ
Khi em bé ra đời sẽ có 12 bà mụ đỡ. Trong truyện “Công chúa ngủ trong rừng” 12 bà mụ đầu tiên đưa ra lời chúc cho sự ra đời của công chúa, còn bà mụ thứ 13 đưa ra lời nguyền về cái chết của công chúa. Bà mụ thứ 13 tạo ra từ sự thống nhất và cân bằng của 12 bà mụ. Cho nên bộ bà mụ sinh là 12, còn đầy đủ sinh tử thì là 13.
Trong bất kỳ ca sinh nào thực ra cũng phải có 13 bà mụ, bởi vì sinh cũng là tử, do trạng thái này được sinh ra thì trạng thái khác phải mất đi, sinh tử là hai tiến trình không bao giờ có thể tách rời. Nếu 12 bà mụ đại diện cho trạng thái mới được sinh ra thì bà mụ thứ 13 đai diện cho trạng thái cũ cần mất đi tương ứng.
Các bà mụ có lời thề ĐỒNG HÀNH SINH TỬ VỚI BÀ MẸ & EM BÉ.
Thực ra sinh là quá trình dài và liên tục suốt cuộc đời của em bé, từ sinh trưởng tế bào, sinh dưỡng bộ phận, phát sinh chức năng, … cho đến khi em bé đạt được sự trưởng thành thì, qúa trình tử hay lão hoá mới bắt đầu. Các bà mụ sẽ đồng hành trong các chuyển hoá sinh tử lớn của em bé, tương đương với các cột mốc trưởng thành mà không phải lúc nào cũng rõ ràng dễ hiểu với nhận thức bình thường. Cụ thể, các bà mụ sẽ đi theo em bé từ lúc
– hình thành hợp tử từ trứng của mẹ và tinh trùng của cha
– hình thành bào thai,
– sinh ra đời,
– lớn lên cùng cha mẹ qua các lễ tuổi như một ngày, đầy tháng, thôi nôi, đầy tuổi …
– dứt căn khỏi cha mẹ
– các sự kiện sinh tử lớn khác
Khi em bé gái trở thành bà mẹ, thì 12 bà mụ sẽ lại tái xuất hiện bằng cách này hay cách khác.
Khi em bé, sau khi đã trở thành mẹ, lại trở thành bà và bà già, thì đến lúc cuối đời, 12 bà mụ lại sẽ xuất hiện. Lúc này các bà mu đại diện cho trạng thái cũ mà đã được sinh ra trước đó mất đi, còn bà mụ thứ 13 lại đại diện cho trạng thái mới ra đời cùng với cái mà chúng ta gọi là cái chết.
Việc bộ bà mụ xuất hiện lúc sinh cũng xuất hiện lúc tử là bắt buộc để chu trình sinh tử có thể hoàn thành.
Thậm chí các bà mụ có thể đi theo em bé từ đời này sang đời khác, bởi vì đó là các lần chuyển đổi từ sinh sang tử, rồi lại từ tử sang sinh.
Trong vận hành luân hồi sinh tử, khi em bé bị chết kẹt trong một trạng thái sinh hoặc tử hoặc trong một vòng lặp sinh tử nào đó, các bà mụ vì lời thề này sẽ chết kẹt theo. Ngược lại, em bé thoát được khỏi trạng thái mắc kẹt thì các bà mụ cũng thoát.
Và để làm được việc này bộ bà mụ bắt buộc phải là 13 người, đúng hơn là 13 bộ.
Thực ra khi các bà mụ đồng hành với đứa con thì cũng đồng hành với bà mẹ. Bà mụ là các bà mẹ đặc biệt của em bé. Các bà mẹ đều có lời thề đồng hành sinh tử cùng với đứa con, y như các bà mụ.
Đồng hành sinh tử nghĩa là
– Cửa sinh cũng là cửa tử : khi đứa con ra đời là lúc đứa con và cả bà mẹ cùng nhau đi qua sinh tử.
– Khi bà mẹ là người bắt đầu quá trình sinh của đứa con thì bà mẹ cũng là người kết thúc quá trình đó, hay bà mẹ là căn nguyên sự sống của đứa con, thì bà mẹ cũng là người cần chủ động trong quá trình dứt căn của đứa con. Người mẹ hoàn toàn chủ động được việc dứt căn với đứa con dù đưa con này không mong muốn hay không đủ lực dứt căn với bà mẹ trong và sau lễ dứt căn.
– Ngược lại, người mẹ cũng là người con, phải dứt căn được khỏi người bà dù người bà có không dứt được căn với mẹ.
– Người mẹ không buông bỏ được đứa con, luôn bị vướng mắc với đứa con cả lúc sống và lúc chết của mình và của đứa con, nghĩa là không kết thúc được trạng thái làm mẹ với đứa con do mình sinh ra, sẽ không chết, không siêu thoát được.
Đồng sinh đồng tử không có nghĩa là mẹ cùng sống cùng chết với con hay hy sinh sự sống của mình vì con. Về mặt sinh tồn, khi bào thai bị đe doạ, thì bản năng của mọi giống loài sẽ là bảo vệ bà mẹ, nguồn sống gốc và hy sinh bào thai, tạo nên tình trạng sẩy thai tự nhiên. Lúc này con tử để mẹ tái sinh, còn nếu con không tử ví dụ thai chết lưu, thì mẹ có thể bị chết cùng con.
Đồng hành sinh tử chỉ là cùng con đi qua sinh tử. Việc người mẹ đồng hành với sự sinh của đứa con là rất rõ ràng, còn việc người mẹ đồng tử với đứa con thì rất ẩn, dù đứa con được gọi là tử và mẹ là mẫu.
Có khả năng sinh dưỡng con thì cũng có khả năng buông bỏ đứa con, một cách tự nhiên, để chính mình và đứa con đều trưởng thành độc lập. mẹ không dứt căn được khỏi mình.
Các bà mụ không chỉ giúp bà mẹ sinh con, dưỡng con mà còn giúp bà mẹ dứt căn được khỏi con, nên các bà mụ sẽ đồng hành với người mẹ và con trong cả sinh và tử.
Khi người phụ nữ đồng hành được sinh tử trong quan hệ mẹ con ở cả hai vai, mẹ và con, thì người phụ nữ mới có khả năng đi qua được chính quá trình tử của chính mình.
Đó là lý do luôn phải có bà mụ thứ 13, bà mụ thứ 13 thông thường là bà mụ giữ lời thề đồng hành sinh tử của cả bộ 12 bà mụ.
LỜI THỀ CÂN BẰNG SINH TỬ & KHÔNG SINH KHÔNG TỬ
Đối xứng với 12 bà mụ là 13 ông thày. Khi sinh 12 bà mụ hiện, bà mụ thứ 13 và 13 ông thày ẩn, khi tử 12 bà mụ ẩn còn bà mụ thứ 12 và 13 ông thày hiện. Tức nhiên, với người trần mắt thịt thì cả bộ ông thày và bà mụ đều ẩn, chỉ được biết đến qua truyền thuyết và các nghi lễ dân gian.
Lời thề của người thày là lời thề
– cân bằng sinh tử, nói cách khác là không thiên vị sự sống hay cái chết
– vô sinh vô tử, nói cách khác là không được can thiệp vào nghiệp quả sinh tử .
Lời thề thày thuốc có gốc là lời thể của bộ 13 ông thày. Lời thề của người thày là cái gốc của y đức, cho nên người thày thuốc y đức không thể thề “làm tất cả vị sự sống của người bệnh” và người thày thuốc cơ bản không thể chịu trách nhiệm về cái chết của người bệnh.
Lời đưa tang “mặc dù các bác sỹ đã tận tình cứu chữa nhưng bệnh nhân không thể qua khỏi” không phù hợp với y đức gốc cũng như không phù hợp với nhận thức đúng đắn về cân bằng sinh tử.
Một người thày thuộc phải thuận theo năng lực của mình, theo hoàn cảnh khách quan, nói cách khác phải tuân theo số mệnh trời đã định sẵn về sự sống và cái chết
– nếu người bệnh cần sống và có thể sống thì thày thuốc cần hết lòng chạy chữa và cứu sống
– nếu người bệnh cần chết thì thầy thuốc nên giúp người bệnh đón nhận và đi qua cái chết môt cách hợp lý nhất vì chết được không hề dễ dàng.
Câu chuyện thể hiện cực kỳ rõ về y đức gốc hay lời thề gốc của ông thày là “Con nuôi của thần chết”
“Truyện kể về một ông nông dân nghèo khó có đến 12 người con. Khi đứa con thứ 13 chào đời, ông lang thang trên đường, tìm một người làm cha đỡ đầu cho thằng bé.
Người đàn ông đầu tiên ông gặp muốn làm cha đỡ đầu của đứa bé, nói “Hãy để tôi làm cha đỡ đầu cho thằng bé. Tôi sẽ chăm sóc nó, để cho nó luôn hạnh phúc”
“Thế ông là ai?” bác ta hỏi
“Ta là Chúa” người lạ mặt đáp
“Thế thì tôi không đồng ý đâu. Bởi vì ông luôn thiên vị kẻ giàu sang phú quý”
Người thứ hai bác ta gặp nói “Hãy để tôi làm cha đỡ đầu cho thẳng bé. Tôi sẽ cho nó sự giàu sang và khoái lạc”
“Thế ông là ai?”
“Ta là Ác Quỷ”
‘Thế thì không được đâu. Ông chỉ chuyên lừa gạt kẻ khác”
Người thứ ba bác gặp chỉ nói ngắn gọn “Hãy để tôi làm cha đỡ đầu cho đứa bé. Tôi là thần chết- kẻ không hề biết thiên vị hay lừa dối”
Và bác nông dân đồng ý. Thế là thần chết thành cha đỡ đầu cậu bé.
Khi cậu bé lớn lên, thần chết dạy cho cậu thành một thầy thuốc xuất chúng.
Thần chết chỉ cho cậu một loại cỏ tiên, và dặn cậu: “Nếu cậu thấy thần chết đứng ở đầu người bệnh, thì tức là bệnh nặng đến mấy cũng vẫn còn cơ hội, hãy cho họ uống loại tiên dược này thì họ sẽ sống. Còn nếu thần chết đứng ở chân bệnh nhân, tức là kẻ đó số đã tận, tuyệt không thể cứu chữa.
Nhờ thế mà cậu bé nghèo khó trở thành một danh y tên tuổi lẫy lừng.
Ngày nọ nhà vua lâm trọng bệnh, không ai chữa bệnh, bèn mới vị thầy thuốc của chúng ta vào cung. Thấy cha đỡ đầu của mình đứng ở chân đức vua, cậu đã toan không cứu, nhưng nghĩ đến những phần thưởng quý giá thì không giữ được tỉnh táo, bèn xoay nhà vua lại, để thần chết đứng ở phía đầu đức vua, rồi cho đức vua uống thuốc thần. Nhà vua tỉnh lại, ban thưởng hậu hĩnh cho chàng trai. Nhưng chàng cũng nhận lời cảnh cáo của cha đỡ đầu : Nếu cậu còn cả gan lừa gạt thần chết lần nữa, thì chính mạng cậu sẽ bị lấy đi.
Một thời gian sau, đến lượt công chúa mang bệnh. Đức vua lại mời cậu thầy thuốc của chúng ta vào cung, hứa nếu cứu được công chúa thì chàng sẽ thành phò mã và kế thừa ngai báu. Nhìn thấy thần chết đứng ở phía chân công chúa, nhưng chàng đã bị sắc đẹp mê hồn của công chúa và ngai vàng cuốn hút, lên quyết định liều mạng một lần nữa, bế công chúa xoay lại, rồi cứu sống nàng.
Nhưng ngay sau đó, thần chết tiến tới, tóm lấy chàng trai, lôi chàng đến một hang động. Trong đó là vô vàn ngọn nến – mỗi ngọn nến tượng trưng cho một đời người. Khi ngọn nến nào cháy hết, tức là người đó số đã tận. Chàng thầy thuốc nhìn thấy ngọn nến của mình sắp cháy hết, cầu xin thần chết thắp cho chàng ngọn nến mới. Nhưng thần chết chỉ hất tay dập tắt ngọn nến của chàng, rồi đưa linh hồn chàng đi.”
Lời thề thày giáo cũng có chung gốc với lời thề thày thuốc, vì thày giáo là thày thuốc tinh thần.
Thày pháp cũng có lời thề gốc của 13 người thày. Thày pháp phải thuận theo pháp, mà có cả pháp sinh và pháp tử. Thày pháp cơ bản phải vừa là thày thuốc, vừa là thày giáo. Thày pháp còn có tên gọi khác là thày mo.
Người cha cũng là người thày, cho nên người cha không có cam kết đồng hành sinh tử với con như người mẹ, mà có cam kết
– cân bằng sinh tử
– vô sinh vô tử
với con.
Thông thường người cha sẽ không bị dính mắc nhiều với con như người mẹ và đi qua cái chết của chính mình tốt hơn rất nhiều so với người mẹ. Chính vì mẹ sinh, cha tử nên các bậc thày đều có tên là Lão Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Trang Tử …
BÀ ĐỠ THÀY LANG & CHA SINH NGƯỜI THÀY
Bà đỡ chính là một bà mụ vật lý. Trong trường hợp bà đỡ này cũng là môt thày thuốc thì người này có hai lời thề
– Lời thề đồng hành sinh tử của bà mụ
– Lời thề cân bằng sinh tử và không sinh không tử của người thày, mà thông thường vừa là thầy thuốc vừa là thày pháp
Người Chăm là dân tộc có truyền thống kết hợp được hai chức năng này vì người Chăm có tính nữ rất mạnh.
Người cha cơ bản cũng là một người thày. Khi xã hội phân ra đủ loại cha và thày, như
– Cha tinh thần
– Cha đỡ đầu
– Thày giáo
– Thày thuốc
– Thày pháp
Những người thày này đều can thiệp rất lớn vào sự phát triển của đứa con thì tính cha đích thực và tính nam đích thực của đứa con đều bị suy.
Một trong các biểu hiện của mạt pháp, là tính nữ và tính nam, tính cha và tính mẹ đều bị xé nhỏ mà không còn đồng hành được trong cùng một con người, dẫn đến suy thoái về dòng máu từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Chúng ta đang ở cuối thời kỳ Mạt Pháp, dẫn đến việc hiểu những lời thề sinh tử và những nghề nghiệp có lời thề sinh tử này hoàn toàn sai.
CẦU NẠI HÀ, CẦU Ô THƯỚC & LỜI THỀ SINH TỬ
Mỗi người phải chịu trách nhiệm tuyệt đối và cao nhất về sự sống và cái chết của chính mình, cho dù
– bà mẹ và bà mụ sẽ đồng hành cùng với người đó trong sinh và tử
– người cha và ông thày sẽ đồng hành với người đó trong cân bằng giữa sinh và tử, mà không sinh không tử
Các sự kiện sinh tử lớn của đời người đều liên quan đến hai cây cầu mà được biết đến với chúng ta qua Tết Thất Tịch và Tết Vu Lan vào tháng Bảy. Đó là
– Cầu Nại Hà
– Cầu Ô Thước
Cầu Ô Thước kết nối hai đầu âm dương mà ở tình trạng phân cực, đại diện bởi Ngưu Lang & Chức Nữ.
Cầu Nại Hà ngược lại đại diện cho sự chuyển hoá từ âm sang dương và từ dương sang âm. Một đầu của cầu Nại Hà là âm, và một đầu của cầu Nai Hà là dương. Một người chết sẽ đi qua cầu Nại Hà từ đầu sinh sang đầu từ. Một người sinh sẽ đi qua cầu Nại Hà từ đầu từ sang đầu sinh

 

Chia sẻ:
Scroll to Top