VẠC ĐỒNG

Loading

VẠC DẦU Ở ĐỊA NGỤC
Vạc dầu có thể coi là một tiểu ngục hoặc đại hình trong địa ngục. Vạc dầu có thể xuất hiện ở các Minh Vương Điện khác nhau và các tầng địa ngục khác nhau.
Các ngục này thực chất là các nhà thương hay các trường năng lượng lớn của Trái đất
Các đại hình này thực chất là các dạng chữa trị đến tận cùng theo kiểu “thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”
– NGỤC VẠC DẦU TRONG QUAN ÂM NAM HẢI TÍCH CA
Kìa ngục đem ném vạc dầu
Xác người sùng trụng từ đầu đến chân.
Dưới thời lửa đốt cháy rân
Dầu sôi người khóc muôn phần khổ thay.
Vì trên trần thế tội dày
Trong lòng hiểm độc sâu cay quá chừng.
Bạo nghịch thiên địa Thánh thần
Phật, Tiên, Tổ, khảo, quân, thân với thầy.
Vạc dầu là đại hình đầu tiên mà công chúa Diệu Thiện găp trong chuyến viếng thăm địa phủ.
– VẠC DẦU TRONG TRANH THỜ ĐỀ TÀI THẬP ĐIỆN DIÊM VƯƠNG
Bộ tranh thờ đề tài Thập Điện Diêm Vương thường có 10 bức, mô tả Thập điện, và vạc dầu là một đại hình thường được miêu tả trong các bức tranh này. Canh giữ vạc dầu, đốt lửa vác dầu và vứt tội nhân vào vạc dầu là lũ quỷ đầu trâu.
Ở một chân núi trong đầm Vân Long, còn một bức hoạ trên đá, được cho là mô tả cảnh quỷ sứ và dầu sôi ở địa ngục.
—o—o—o—
CÁC NHẬN VẬT LỊCH SỬ GẮN VỚI VẠC ĐỒNG
Vạc đồng khi gắn với một nhân vật lịch sử nào đó là dấu hiệu rằng nhân vật lịch sử đó có dòng máu của vua cha Diêm Vương và có liên quan đến Thập điện Minh Vương.
– VẠC DẦU CỦA VUA ĐINH TIÊN HOÀNG
Vị vua duy nhất của nước Việt sử dụng đại hình Vạc dầu là Đinh Tiên Hoàng.
Theo sử cũ truyền lại: “Vua (Đinh Tiên Hoàng) muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: “Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Trong Việt sử toàn thư, tác giả Phạm Văn Sơn cũng cho biết điều tương tự: “Tiên Hoàng Đế ban hành nhiều luật lệ rất khắt khe. Ngài đặt vạc dầu ở trước điện, nuôi hổ báo trong vườn, dựng cột đồng nung đỏ để trừng trị những kẻ gian ác và phản bội”.
Đại Nam quốc sử diễn ca viết
Pháp hình cũng lạ xưa nay,
Hùm nuôi trong cũi, vạc bày ngoài sân.
Các triều đại trước và sau thời Đinh dù khi khép tội tử hình, có những cách xử khác nhau như lăng trì, giảo (thắt cổ), trảm (chém đầu), khiêu (chém bêu đầu) hay dùng thuốc độc… đều không dùng “hổ dữ, vạc dầu”.
Nhưng trong sử sách tự cổ chí kim chưa từng ghi nhận trường hợp nào phạm trọng tội mà bị Đinh Tiên Hoàng bỏ cho hổ xé xác phanh thây, hay phải chịu nghiệp luộc chín trong vạc dầu sôi đỏ lửa. Ngay lời trích dẫn của Đại Việt sử ký toàn thư có viết: “Mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm”, đủ cho chúng ta thấy biện pháp của Đinh Tiên Hoàng chủ yếu là ngăn ngừa hơn là thực thi. Trong Việt sử toàn thư được hậu thế viết sau này cũng khẳng định: “Nhờ có hình luật nghiêm khắc này, nền an ninh quốc gia được vãn hồi”. Như vậy, dẫu hổ dữ có nuôi, vạc dầu có đỏ lửa, nhưng vua Đinh chỉ là để khuyên răn những kẻ có dã tâm phạm tội nhìn thấy mà khiếp sợ, hơn là hiện thực hóa hình phạt.
Trong lịch sử Trung Hoa, Tần Thuỷ Hoàng cũng ưa hình pháp, ông cho bỏ những kẻ bất đồng chính kiến vào vạc dầu sôi suốt mấy ngày đêm làm bao nhiêu quan thần bỏ mạng.
Vạc đồng là một biểu tượng quyền lực với vua Đinh, như Cửu Đỉnh là biểu tượng của vương triều nhà Nguyễn.
Ca dao có câu
Vạc Đinh lại trở về Lê
Nàng Dương khăn gói lại về chánh cung
– Vạc Đinh : vạc của vua Đinh Bộ Lĩnh,
– Lại trở về Lê : trở về với vua Lê Đại Hành
– Nàng Dương : Dương Vân Nga
– Khăn gói lại về chánh cung : Dương Vân Nga là hoàng hậu của Đinh Bộ Linh, sau khi vua Đinh mất lại thành hoàng hậu chánh cung của vua Lê Đại Hành
– VẠC DẦU CỦA NGUYỄN MINH KHÔNG
Trong các tích khác nhau quan hệ của Từ Đạo Hanh và Nguyễn Minh Không cũng khác nhau
– Quan hệ thày trò : Từ Đạo Hạnh là thày của Nguyễn Minh Không và chính Từ Đạo Hạnh đặt biệt danh cho Nguyễn Minh Không
– Quan hệ đạo hữu : Từ Đạo Hạnh là bạn của Nguyễn Minh Không và Giác Hải. Nguyễn Minh Không là sư huynh của Từ Đạo Hạnh. Ba người rủ nhau đi Tây Trúc học đạo, (tuy nhiên giữa đường quay về)
Nhưng có một điều thống nhất là Nguyễn Minh Không đã chữa bệnh cho Từ Đạo Hạnh bằng vạc dầu sôi
Trong quan hệ sư huynh sư đệ : Tương truyền lúc còn đang học đạo, trong khi dạo chơi ở khu rừng, Từ Đạo Hạnh giả tiếng hổ dọa, Nguyễn Minh Không nói: “Nếu ngươi muốn vậy, sau này chắc sẽ phải chịu quả báo như thế.” Từ Đạo Hạnh hối hận: “Xưa kia đức Thế Tôn tạo quả viên thành còn chịu báo kim sương, mã mạch, huống chi đệ sinh thời mạt pháp đâu có thể tránh được, đời sau sẽ làm quốc chủ và sẽ chịu báo này, huynh với đệ có nhân duyên bằng hữu lúc đó hãy cứu đệ.”
Trong quan hệ thày trò : Từ Đạo Hạnh tư xem được tương lai, biết mình đã hoá hổ nên đã chuẩn bị thuốc giải rồi trao cho Nguyễn Minh Không, để về sau khi mình chuyển kiếp thành vua, thì Nguyễn Minh Không sẽ cứu lại mình. Trong quốc sử còn ghi rằng: “Tục truyền khi sư Từ Đạo Hạnh sắp trút xác, trong khi ốm đem thuốc niệm thần chú rồi giao lại cho Nguyễn Chí Thành tức Minh Không, dặn rằng 20 năm sau nếu thấy Quốc vương bị bệnh lạ thì đến chữa ngay, có lẽ là việc này.”
Sau khi Thiền sư Đạo Hạnh hóa, đầu thai là Dương Hoán, được Vua Nhân Tông (vô sinh) yêu quý lập làm Hoàng thái tử và kế vị ngai vàng tức Lý Thần Tông Hoàng đế. Lên ngôi không được bao lâu, tháng 3 năm 1136 Vua Lý Thần Tông bệnh nặng, lông lá mọc khắp cơ thể, gầm thét như hổ suốt ngày, các danh y tài giỏi được triệu đến chữa bệnh nhưng không thuyên giảm. Tức thì trong dân gian, xuất hiện bài đồng dao của trẻ con rằng:
“Bắc nam có tây đông
Đáy bể ẩn có rồng
Vua mắc bệnh khó chữa
Hãy đón Nguyễn Minh Không.”
hoặc
“Tập tầm vông
Có ông Nguyễn Minh Không
Chữa cho vua khỏi có
Tập tầm vó
Muốn chữa cho vua khỏi có
Có ông Nguyễn Minh Không”.
Vua bèn sai sứ tìm gặp Sư. Khi Sư đến, Tôn túc thạc đức các phương đang ở trên điện làm phép, thấy Sư mộc mạc giản dị, có người khinh khí không đáp lễ. Sư đến, đem theo một cái đinh lớn, dài hơn 5 tấc, đóng vào cột, lên tiếng nói: “Ai có thể nhổ cái đinh đó ra thì trước đáng được tôn trọng, sau chữa được bệnh cho vua”. Nói thế ba lần, chẳng ai dám làm. Sư lại lấy hai ngón tay trái, cầm vào thì đinh theo chúng mà ra. Mọi người đều khiếp phục.
Khi gặp vua, Sư lớn tiếng nói: “Đấng đại trượng phu, giàu sang bốn bể, há lại làm ra những điều cuồng loạn đấy ư?” Vua rất run sợ, Sư sai lấy một vạc lớn đựng nước nấu sôi tới cả trăm lần, dùng tay quậy lên khoảng bốn lần, rồi thò tay vào trong vạc dầu đang sôi sùng sục lấy ra đủ 100 cái kim châm cứu cho vua. Bệnh liền bớt ngay.
Sau khi khỏi bệnh, cảm phục tài năng, Vua Lý Thần Tông phong ông là Quốc sư, đổi họ thành Lý Quốc Sư.
Dân gian có câu
Đại Hữu sinh Vương
Điềm Dương sinh Thánh.
Trong hai câu ca trên thì Vương chỉ Đinh Tiên Hoàng, Thánh chỉ Nguyễn Minh Không. Hai ông được sinh ra ở hai làng liền kề nhau thuộc huyện Gia Viễn, Ninh Bình.
Tại núi Dương Sơn có chùa Lạc Khoái xã Gia Lạc (Gia Viễn, Ninh Bình) còn câu đối:
Điềm Xá chung linh sinh Nguyễn thánh
Hoa Lư dục tú xuất Đinh Hoàng.
Như vậy vùng đất này có hai nhân vật nổi danh của nước Việt gắn với vạc dầu.
Nguyễn Minh Không vừa là một thiền sư, một đạo sỹ và một dược sư. Cách sử dụng vạc dầu của Nguyễn Minh Không, cho thấy đây là công cụ chữa bệnh, những trọng bệnh không chữa theo cách thông thường được.
– VẠC PHỔ MINH CỦA TRẦN NHÂN TÔNG
Vạc Phổ Minh là một chiếc vạc bằng đồng được đúc vào năm 1262 bởi thượng hoàng Trần Thái Tông, nhà Trần Việt Nam, và đã đặt tại phủ Thiên Trường (nay là Nam Định).
Vạc được đúc vào tháng 2 năm Nhâm Tuất (1262), nhân dịp Trần Thái Tông (lúc đó là Thượng hoàng) về chơi Tức Mặc (nay thuộc về tỉnh Nam Định). Tại đây, Trần Thái Tông đã ban yến cho dân làng. Các hương lão từ 60 tuổi trở lên được ban tước hai tư, lão bà thì được hai tấm lụa. Nhân đấy, đổi Tức Mặc làm phủ Thiên Trường. Dựng cung Trùng Quang để các vua sau khi đã nhường ngôi về ở; lại dựng một cung riêng gọi là cung Trùng Hoa cho Tự quân (vua mới) khi đến chầu Thượng hoàng thì ngự ở đó. Đặt người chức dịch ở hai cung ấy để phòng khi sai khiến, hầu hạ và chức lưu thủ để trông coi. Phía Tây cung Trùng Quang dựng chùa Phổ Minh. Tại đây cho đúc một chiếc vạc lớn và khắc bài minh vào vạc. Tương truyền, miệng vạc dày và rộng đến nỗi hai người có thể chạy nhảy và đi lại trên đó.
An Nam tứ đại khí là bốn kỳ quan, bốn quốc bảo và là bốn công trình nghệ thuật bằng đồng của văn hóa thời Lý, Trần bao gồm:
– Tháp Báo Thiên ở Thăng Long (Hà Nội) được xây năm 1057 thời Lý Thánh Tông ở Chùa Báo Thiên, nay là khu đất mé tây hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội (khu đất thuộc phố Nhà Chung, gần Nhà thờ Lớn). Tháp này cao đến 20 trượng, có tất cả 12 tầng. Tầng trên cùng bằng đồng, những tầng dưới bằng đá và gạch.
– Chuông Quy Điền ở chùa Diên Hựu (chùa Một Cột), Hà Nội được đúc trong lần sửa lại chùa Diên Hựu (chùa Một Cột, Hà Nội) vào tháng 2 năm Canh Thân, đời Lý Nhân Tông. Để đúc quả chuông này, vua Lý Nhân Tông đã cho sử dụng đến 12.000 cân đồng (tương đương với 7,3 tấn đồng bây giờ).
– Tượng Phật Di Lặc chùa Quỳnh Lâm (Chùa Quỳnh Lâm, Đông Triều, Quảng Ninh); được đúc bởi Nguyễn Minh Không
– Vạc Phổ Minh ở chùa Phổ Minh, Thiên Trường (Nam Định) đúc 1262 bởi Trần Nhân Tông
Tháng 10 năm Bính Ngọ (1426) khi bị vây ở Đông Quan, Vương Thông đã cho phá vạc Phổ Minh để lấy đồng đúc vũ khí. Các tứ đại Minh Khí khác cũng bị phá bởi quân Minh.
Nam Định, nơi có vạc đồng Phổ Minh và Ninh Bình, quê hương của Đinh Bộ Lĩnh và Nguyễn Minh Không là hai vùng đất liền kề của mảnh đất Sơn Nam của Thăng Long Tứ Xứ.
Vạc Phổ Minh là minh khí duy nhất trong tứ đại minh khí được đúc bởi nhà Trần. Có thể nói Trần Nhân Tông chọn vạc đồng Phổ Minh làm biểu tượng cho chính mình và các thái thượng hoàng nhà Trầ.
Các nhà vua/triều đình chọn vạc đồng làm biểu tượng là
– Đinh Bộ Lĩnh
– Trần Nhân Tông
– Nhà Nguyễn chọn Cửu Đỉnh làm biểu tượng cho vương quyền nhà Nguyễn, nhưng cũng cho đúc vạc đồng .
– VẠC DẦU & THÁNH GIOAN
Thánh Gioan hay Gioan Tông đồ; trong tiếng Anh là John the Apostle, sống vào khoảng 6-100 CN theo Tân Ước là một trong mười hai tông đồ của Chúa Giêsu. Gioan là con của ông Dêbêđê và bà Salome, anh trai của Gioan là Giacôbê, cũng thuộc nhóm mười hai này.
Truyền thống Kitô giáo cho rằng Gioan sống lâu hơn các tông đồ còn lại và rằng ông là người duy nhất qua đời tự nhiên chứ không phải tử đạo như những người còn lại. Thời sơ kỳ Kitô giáo, các giáo phụ có quan điểm cho rằng Gioan Tông đồ, Gioan viết Phúc Âm, Gioan viết sách Khải Huyền, Gioan tư tế và người môn đệ Chúa yêu quý đều là một người. Truyền thống của hầu hết các nhánh Kitô giáo đều cho rằng Gioan Tông đồ là tác giả của nhiều cuốn sách trong Tân Ước.
Sau khi Jesus chết, hoàng đế Domitianô đã truyền bách hại các Kitô hữu. Khi biết còn một môn đệ chót của Chúa Giêsu sống và giảng dạy ở Á Châu, ông truyền đem về Roma để kết án tử. Người ta đánh đòn Ngài rồi dẫn tới cửa La-tinh và dìm vào vạc dầu sôi. Thật lạ lùng, Ngài đi ra không hề hấn gì.
Sau đó ngài tiếp tục sống để truyền đạo.
—o—o—o—
VẠC DẦU CHỮA BỆNH GÌ ?
1. Đội lốt
Vạc dầu của Nguyễn Minh Không để chữa bệnh vua hoá hổ cho vua Lý Thần Tông.
Hổ là chúa sơn lâm và nhiều con vật muốn đội lốt hổ để ra oai. Tục ngữ có câu “Cáo đội lốt hổ”. Con cáo mà lại muốn hoặc cần phải làm vua, thì nó phải đội lốt hổ. Vấn đề là nó cần phải biết
– nó đội lốt hổ để làm vua
– nhưng bản chất gốc của nó là cáo
– sau một thời hạn làm vua thì nó sẽ quay trở lại là một con cáo
Từ Đạo Hạnh là người tu hành đắc đạo nên ông biết điều đó, nhưng kiếp sau của ông, Lý Thần Tông thì không, nên Từ Đao Hạnh đã phải nhờ Nguyễn Minh Không chữa bệnh cho mình ở kiếp sau khi làm vua.
Trong cuộc đời mình, tất cả chúng ta đều phải diễn rất nhiều vai, làm cha, làm mẹ, làm vua, làm thày, làm con, làm trò … và chúng ta để thích nghi và làm tốt vai diễn của mình, cần đội các lốt khác nhau, như ca dao nói
Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy
Có người nghiện đội lốt và danh xưng
Nghiện đội lốt vật lý là nghiện
– Trang điểm
– Đeo mặt nạ
– Phẫu thuật thẩm mỹ
– Sử dụng hàng hiệu
– Sử dụng các loai trang phục và đồ dùng cá nhân để tạo ra một dáng vẻ nào đó mà thực chất mình không có hoặc gần như không có
– Ăn uống, tập luyện và tạo dáng vẻ cho giống với các tiêu chuẩn người đẹp, hoa hậu, nam vương …
Nghiện đội lốt tinh thần là nghiện
– Nghiện các chức danh như tiến sỹ, bác sỹ, giáo sư, nhà báo, nhà giáo …
– Nghiện các khuôn mẫu như phụ nữ đích thực, người mẹ đảm đang, công dung ngôn hạnh, con ngoan trò giỏi …
Khi một người
2. Mạo danh
Vạc dầu trong địa ngục theo Quán Âm Nam Hải Tích ca là để chữa bệnh buôn thần bán thánh
Tội ném vào vạc dầu là bạo nghịch Thiên địa Thánh thần, Phật, Tiên, Tổ, khảo, quân, thân với thầy. Cụ thể
– Mượn danh, đội lốt thần Phật
– Phá hoại gia đạo bằng các phần tử giả danh, đội lốt này
– Đội lốt thày, xưng hô thày để dạy dỗ, ra oai và kiếm chác
3. Núp bóng
Núp bóng liên quan đến cài đặt nghĩa là tự nguyện để bị cài đăt để giống như người khác hay là một phần của người khác
Núp bóng để dựa dẫm hoặc vì a dua, ví dụ ai xưng thầy thì cũng xưng con
4. Bị cài đặt
– Cài đặt trên cơ thể vật lý các cơ quan, bộ phận giả : răng giả
– Cài đặt trên cơ thể tế bào các tế bào giả : máu giả
– Cài đặt trên các thể năng lượng như hào quang, kinh lạc
– Cài đặt tư tưởng
– Cài đặt ký ức giả
—o—o—o—
TỘI NHÂN BỊ DIÊM VƯƠNG XÉT XỬ NÉM VÀO VẠC DẦU LÀ AI ?
Phần đội lốt, phần giả dạng, phần mạo danh, phần núp bóng, phần cài đặt vào con người đúng, con người gốc, con người thật được gọị là người ác, người xấu, người giả …, nói chung là tội nhân mà bị Diêm Vương xét xẻ.
Chính phần tội nhân đó sẽ được đốt tiêu huỷ trong vạc dầu với điều kiện
– Phần gốc của con người phải nhận ra rằng nó bị đội lốt, bị giả danh, bị cài đặt, và có mong muốn cải tà quy chính
– Phần gốc của con người phải có đủ năng lực tinh thần và thân thể để chịu đựng sự thanh lọc phần người xấu, người ác, người giả này
Phần gốc của con người sẽ không bị tiêu huỷ trong vạc dầu, mà sau khi các phần giả bị tiêu huỷ thì nó sẽ tự tiêu huỷ trong quá trình gọi là siêu thoát
Có mấy điều lưu ý sau với chúng ta
– Cứ mắc tội, cứ làm điều ác … thì sau khi chết sẽ về đia ngục
– Cứ làm người tốt, cứ sống thiện … thì sau khi chết sẽ lên thiên đàng hoặc đi qua địa ngục không hề hấn gì
Những đã làm người, kiểu gì cũng nhiễm độc, vướng trược, không mắc sai lầm này thì phạm tội lỗi khác, nghĩa là ai cũng có hai phần thiện ác
– Phần thiện dù là thiện không có đủ năng lực năng lực nhận thức và hành vi để tư đem phần ác đi cùng nó xuống địa ngục để thanh lọc vì địa ngục là kiểu chữa bệnh rất nặng
– Phần thiện bị lôi theo phần ác xuống địa ngục
Trong tranh vẽ về Thập Điện Diêm Vương, luôn có Phật Bà Quán Âm song hành với các vua Thập Điện. Trong sự tích mẹ Quán Âm Nam Hải Tích Ca, công chúa Diệu Thiên đã đi qua các tầng địa ngục và cứu nạn được nhiều người tốt lên thiên đàng, bởi vì họ đã được thanh lọc các phần xấu khác nhau ở các tầng địa ngục khác nhau.
Phật Thích Ca vào địa ngục để thanh lọc đến tận cùng và nhập Niết Bàn.
Vậy, chúng ta là ai thì trải nghiệm của chúng ta về vạc dầu nói riêng và địa ngục nói chung sẽ là như thế.
Chia sẻ:
Scroll to Top