TAM THAI

Loading

TAM THAI TRONG PHẬT GIÁO

THAI SANH

Sau khi mạng chung, chúng sanh tùy theo nghiệp lực thiện hay ác lúc sanh tiền đã tác tạo, mà tái sanh vào một trong sáu cảnh giới luân hồi. Sáu cảnh giới luân hồi là thiên, nhân, a-tu-la, súc sanh, ngạ quỷ, và địa ngục.

Theo đạo Phật, có bốn cách để thọ sanh một kiếp sống mới. Đó là noãn sanh, thai sanh, thấp sanh và hóa sanh.

  • Noãn sanh là các loài hữu tình sanh ra từ trứng, như loài ngỗng, chim sẻ…
  • Thai sanh là các loài hữu tình sanh ra từ thai mẹ, như con người, voi, ngựa…
  • Thấp sanh là các loài hữu tình sanh ra từ nơi ẩm thấp, như trùng, mọt…
  • Hóa sanh là các loài hữu tình sanh ra bằng cách tự nhiên hóa hiện, như chư thiên, chúng sanh cõi địa ngục…

NHẬP THAI, TRỤ THAI, XUẤT THAI

Theo https://www.phattuvietnam.net/qua-trinh-nhap-thai-tru-thai-va-xuat-thai/

Theo Du già sư địa luận (q1), tùy theo việc đoạn trừ phiền não có sâu hay cạn, phước báo nhiều hay ít, giữa kẻ phàm người thánh mà dẫn đến việc nhập thai, trụ thai và xuất thai của mỗi loài có hạnh phúc hay khổ đau sai khác.

Nhập thai : Khi cha mẹ quan hệ ở giai đoạn tham ái cùng cực, mỗi người xuất ra một giọt tinh huyết và hòa hợp lẫn nhau, ngay lúc đó trung ấm liền sanh ý niệm chấp thủ, muốn gá hợp vào giọt tinh huyết, mà nhập vào thai bào. Tinh thần đứa con đi vào trong hợp tử trong đạo Phật gọi là trung ấm.
Trụ thai : Sau khi đầu thai vào loài nào, thai nhi phải trải qua thời gian tương đương với loài ấy rồi mới được sanh ra. Thai tạng khi sanh trưởng đều phải trải qua tám vị sai biệt.– Yết la lam vị: lúc tinh huyết mới đọng lại còn hơi lỏng như mũi tên.
– Yết bộ đàm vị: lúc thai tạng chưa sanh thịt, trong ngoài như sữa đặc.
– Bế thi vị: lúc thai nhi mới tượng hình có dáng hai tay khép lại, thịt đã sanh nhưng còn rất mềm.
– Kiền nam vị: lúc khối thịt đã hơi cứng có thể xoa rờ được.
– Bát la xa khê vị: lúc thai nhục lớn lên, hiện ra tướng tay chân và đầu.
– Phát mao trảo vị: lúc tóc, lông, móng tay và chân hiện ra.
– Căn vị: lúc phát sanh tay, mắt, mũi, miệng và đường đại tiểu tiện.
– Hình vị: lúc các tướng nơi thân hiện ra đầy đủ.

Xuất thai : Khi thai tạng đủ tháng đủ ngày, người mẹ không còn kham giữ được nữa, lúc gió bên trong nổi lên, người mẹ đau đớn vô cùng. Lại bởi nghiệp báo của thai tạng phát khởi, gió sanh phần dấy lên, khiến cho đầu thai nhi hướng xuống, chân quay lên, xuôi hai tay như sắp muốn ra, vỏ thai bao bọc xung quanh hướng ra sản môn. Đúng lúc thoát ra, vỏ bọc thai bị xé rách phân ra hai nách. Lúc thai nhi ra khỏi sản môn mới thực sự gọi là sanh.

TAM THAI

Tam Thai là một khái niệm chỉ ba ngôi vị của Phật, bao gồm:

– Pháp thân: là bản thể của Phật, là chân lý tuyệt đối, là nguồn gốc của tất cả pháp hữu vi và vô vi. Pháp thân thường được biểu thị bằng hình ảnh của một vị Phật đang ngồi thiền định, với tay phải đặt trên đùi phải, tay trái đặt trên đùi trái, lòng bàn tay hướng lên trên.

– Bồ đề tâm: là tâm nguyện của Phật muốn giải thoát tất cả chúng sinh khỏi khổ đau. Bồ đề tâm thường được biểu thị bằng hình ảnh của một vị Phật đang ngồi thiền định, với tay phải đặt trên đùi phải, tay trái đang cầm hoa sen.

– Nhân thân: là thân tướng của Phật khi Ngài xuất hiện trên thế gian để giáo hóa chúng sinh. Nhân thân thường được biểu thị bằng hình ảnh của một vị Phật đang ngồi thiền định, với tay phải đặt trên đùi phải, tay trái đang cầm bình cam lồ.

Ba ngôi vị của Phật trong “tam thai” có mối quan hệ mật thiết với nhau. Pháp thân là nền tảng, Bồ đề tâm là động lực, và Nhân thân là biểu hiện của Phật.

Một số cách biểu thị “tam thai” trong Phật giáo:

– Biểu tượng: Ba vị Phật A-di-đà, Thích-ca Mâu-ni và Dược Sư Lưu Ly Quang thường được xem là biểu tượng của “tam thai”.

– Thần chú: Thần chú “Om mani padme hum” cũng được xem là biểu tượng của “tam thai”.

– Mudra: Ba mudra của Phật, bao gồm: mudra thiền định, mudra cầm hoa sen và mudra cầm bình cam lồ, cũng được xem là biểu tượng của “tam thai”.

Ngoài ra, tên gọi “Tam Thai” cũng có thể được hiểu theo nghĩa là “tam giới”, trong đó mỗi thai ứng với một giới

TAM THAI

Chia sẻ:
Scroll to Top