VÙNG ĐẠI HỒ THĂNG LONG

Loading

Phía Nam của Thăng Long là vùng Đại Hồ, mà nay trở thành các quận

– Hai Bà Trưng

– Đống Đa

– Thanh Xuân

– Hoàng Mai

– Thanh Trì

– Thường Tín

Đất Thanh Trì, hay là đầm xanh phía nam ngày xưa rất rộng bao gồm cả 4 quận Hai Bà Trưng, Đống Đa, Thanh Xuân và Hoàng Mai

Dấu vết của Đại Hồ ở vùng phía Nam này là

– Hệ thống đầm :

– Hệ thống sông phía Nam

Vấn đề là con sông Hồng liên tục di chuyển qua các đời từ phía Tây sang phía Đông cho nên

– Quận Hai Bà Trưng & Long Biên từng là 1.

– Quận Hoàng Mai & Gia Lâm từng là 1

– Huyện Thanh Trì & Văn Giang, Hưng Yên từng là 1

– Huyện Thường Tín & Khoái Châu, Hưng Yên từng là 1

Đã từng có những con sông cổ chạy cắt ngang sông Hồng hiện nay

– Cống Ngâu chạy giữa Hồ Yên Sở – Hồ Tam Trinh & Đầm Lớn

– Bắc Hưng Hải phía Bắc làng Chử Xá

– Kênh nước phía nam làng Chử Xá

Các làng tên Lan ở vùng này đều liên quan đến các con sông chảy ngang này

– Kim Lan

– Tiểu Lan hay Yên Mỹ

Cho nên trong vùng này, có nhiều sự tích giữa hai bên bờ hoặc các địa danh hai bên bờ sẽ trùng nhau

– Thập Tam Trại gốc từ Lệ Mật Long Biên, qua Hồ Tây

– Chử Đồng Tử có di tích ở cả hai bên bờ sông Hồng

– Nguyễn Siêu đóng quân ở Phù Liệt (Thanh Trì & Thường Tín) nhưng chết ở Hưng Yên

– Đình làng Yên Mỹ Thanh Trì lấy từ đình làng Trung Quan của Gia Lâm

– Tỉnh Hưng Yên có một số vùng đất nhỏ nằm bên bờ Tây sông Hồng hiện nay đặc biệt tính từ phà Mai Động đến đền Lảnh Giang

– Các bến đò giữa 2 bờ sông ; Bến đò Thuý Lĩnh – Kim Lan, Bến đò Khuyến lương

– Các cây cầu giữa 2 bờ sông : Vĩnh Tuy – Thanh Trì

ĐẦM/ĐÀM/TRÌ – MƯƠNG/CỐNG – HỒ/AO/CHUÔM

QUẬN HAI BÀ TRƯNG

– Hồ Đồng Nhân đền Hai Bà Trưng
– Hồ Thanh Nhàn – Hồ Giang – Hồ Quỳnh

– Hồ Ba Mẫu – Hồ Bảy Mẫu – Hồ Thuyền Quang

QUẬN ĐỐNG ĐA

– Hồ Xã Đàn

– Hồ Hố Mẻ – Hồ Không Lực

– Hồ Linh Quang

– Hồ Văn Chương

QUẬN HOÀNG MAI

– Hồ Định Công

– Hồ Linh Đàm : Đầm Đại Từ – Hồ Linh Đàm (Long Đàm, Đàm Linh Đường) – Đầm Pháp Vân : https://nhandan.vn/ho-linh-dam-post561077.html

Đầm Đại Từ hoa sen thơm ngát
Giếng Đại Từ nước mát trong xanh
Dòng Tô uốn khúc lượn quanh
Đất nuôi trẻ nhỏ lừng danh trong ngoài.

—o—

– Đầm Sét – Đầm sông Sét – Hồ Yên Sở gồm Đầm Lớn và Hồ câu Tam Trinh

Dưa La, húng Láng, ngổ Đầm
Cá rô Đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây

—o—

Nhất trong là nước giếng Hồi
Nhất béo nhất bùi cá rô đầm Sét

—o—

Dưa La, húng Láng, ngổ Đầm
Cá rô Đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây

—0—

Huyện Thanh Trì kia làng Thịnh Liệt
Đồn cá rô Đầm Sét là ngon
Bấy lâu cạn nước trơ bùn
Biết rằng hương vị có còn như xưa

—0—

Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần
Nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét.

—o—

Long Ðàm hay Linh Ðàm ngày nay, theo truyền thuyết là nơi ở của Long Vương, người con của Long Vương là học trò Chu Văn An. Theo sự tích Ðức thành Thủy thần tại Liếu Xạ Can, tức Miếu Trà Gàn, nơi thờ người học trò thủy thần ở phía nam hồ Linh Ðàm thì vào thời Chu Văn An dạy học ở Trang Cung Hoàng, tại Ðầm Sen xuất hiện một chàng trai trẻ, vẻ nho phong lên xin học, người học trò khiêm tốn nói về thân phận của mình, thầy Chu nghe xong bảo rằng đã hiếu học thì bất kỳ ai cũng học được, miễn là chịu khó. Thầy Chu dạy ân cần, trò chăm chỉ, nên chữ của thầy, lời thầy vâng giảng cứ thấm sâu vào tâm trí người học trò ấy. Vào một năm trời nắng nóng kéo dài, ruộng đồng khô nẻ, lúa chết, cá cua cũng chết. Thầy Chu suy nghĩ thăm dò rồi bàn cùng môn đệ tìm cách chống hạn, cứu lúa, cứu dân. Người học trò thủy thần thưa trình thầy, xin thầy cho dùng bút nghiên mài mực, vẩy khắp bốn phương cầu đảo trời xanh. Bỗng mây đen ùn ùn kéo đến, mưa xối xả. Cả vùng hồ và đồng ruộng nước ngập tràn, cá tôm bơi lội, đồng ruộng tốt tươi. Truyền thuyết kể rằng, sau khi làm mưa, mực rơi xuống Ðầm Vĩnh Quỳnh biến thành Ðầm Mực, còn bút rơi xuống làng Tó (Tả Thanh Oai), nơi sau này phát tích dòng họ Ngô Gia Văn Phái, có sáu người đỗ tiến sĩ. Nhưng người học trò đã phải về chịu tội với Long Vương, một tiếng sét đánh xuống mặt hồ, xác thuồng luồng nổi lên trôi về phía Cầu Bươu. Tương truyền đó là xác người học trò Thủy thần. Nơi hóa của người học trò Thủy thần được dân lập miếu thờ, tên chữ là Miếu Xạ Can, tức đền thờ Trừ nạn hạn hán. Dân các làng trong vùng hồ Long Ðàm cầu được mưa, đồng ruộng tốt tươi, nên làng nào cũng lập đền thờ người học trò Thủy thần, được Vua phong là Bảo Linh vương. Nhưng nơi thờ chính vẫn là Miếu Trà Gàn ở làng Bằng Liệt. Hằng năm vào ngày 16-8, ngày hóa của người học trò Thủy thần, dân bảy làng trong vùng lại tổ chức nước Thánh và làm lễ tế thần ở Miếu Trà Gàn. Có lẽ vì tính linh thiêng của vị thánh này mà hồ được mang tên là Linh Ðường, rồi Linh Ðàm (Hồ Thiêng).

Một thuyết khác được ghi trong thần phả làng Tứ Kỳ, thì người học trò này là con trai của bà Loan Nương, quê ở Tức Mặc, Nam Ðịnh, lên tu ở Chùa Tứ Kỳ. Nhà nghèo nhưng siêng năng, cậu thường bơi thuyền trên hồ sen câu cá, rồi một hôm cậu bơi thuyền qua sông Tô Lịch đến trang Cung Hoàng xin học thầy Chu. Việc cầu mưa không phải là việc làm xa lạ đối với thời bấy giờ. Rất có thể người học trò này cùng với các môn đệ khác của thầy Chu đã làm việc cầu mưa. Và trời mưa xuống là sự tất nhiên của trời đất “nắng hạn thì sẽ gặp mưa rào” và sấm sét làm chết người cũng có thể xảy ra. Và thế là truyền thuyết về người học trò Thủy thần của Chu Văn An dùng bút mực cầu trời mưa, được hình thành trong dân gian.

Hệ thống đền đinh chùa liên quan : Miếu Trà Gàn ở làng Bằng Liệt, Miếu Xạ Can, Câu Bươu, Đầm Mực, Đình, Chùa Tứ Kỳ, Ðình Chùa Linh Ðàm, Đình Chùa Pháp Vân

– Đầm Mực

– Đầm Sòi – Đầm Dọc Ngang – Đầm Hồng

– Hồ Không Quân – Hồ Phương Liệt

– Hồ đền Lừ

– Hồ Vĩnh Hoàng

– Hồ Thanh Trì – Hồ Vĩnh Hưng

HUYỆN THANH TRÌ

– Hồ Thanh Liệt

– Đầm Quang Lai

– Đầm Đông Trạch

– Đầm Vạn Xuân,

– Đầm Mễ Trì – Đầm trong trung tâm Hội nghị Quốc Gia – Miếu Đầm, Miếu Quán Đầm thờ Đông Hải Đại Vương

Truyền thuyết dân gian kể rằng: Vùng Mễ Trì thuở hồng hoang có nhiều hồ đầm ngòi lạch. Thuở ấy ở Mễ Trì, có hai vợ chồng tuổi đã xế chiều, làm nghề đánh cá. Ông bà là người tu nhân tích đức luôn làm điều thiện, nhưng tuổi cao mà vẫn chưa có con nối dõi. Một hôm, ông kéo vó trên đầm, kéo mãi mà không được cá, chỉ được một quả trứng có màu sắc lung linh như ngọc. Ông liền đem về cho vào cái chum lớn. Thì lạ thay, khoảng 20 ngày sau, trứng nở ra một con rắn trắng. Ông lão quý rắn lắm, coi rắn như con luôn quấn quýt, ông đi kiếm những bông hoa thơm về nuôi rắn, những lúc phải đi đánh cá kiếm ăn thì ông nhờ bà lão chăm sóc giúp. Thế rồi khoảng 100 ngày sau, một đêm trời bỗng nổi giống tố, mây đen kéo đến đầy trời, sấm vang chớp giật và mưa ào ào trút xuống. Bỗng thấy rắn bò ra khỏi chum và trườn về phía đầm. Không quản phong ba giá lạnh, ông lão chạy theo gọi rắn, tiếng ông vang vọng trong gió mưa nghe đến não lòng não ruột: “Rắn ơi! Về với ta đi! Ta hiếm hoi cũng coi rắn như con, đừng bỏ ta mà đi rắn ơi!”

Mặc cho ông lão gọi đến khản tiếng vẫn không thấy rắn trở lại, ông đứng lặng bên hồ và nghĩ: Chắc rắn là con vua Thuỷ Tề đã được Long Vương gọi về Thuỷ Phủ, nên ông chỉ biết ngậm ngùi quay lại lều cũ. Sáng hôm sau, trời quang mây tạnh, ông lão lại ra bờ đầm kéo cá. Đứng trên bờ đầm, ông khẽ khấn “Rắn ơi, nếu quả là linh thần hãy phù hộ cho ta kiếm được nhiều cá”. Ông vừa dứt lời thì lạ thay, mặt hồ rực lên một ánh hào quang chói lọi. Quả nhiên từ đấy, ông lão kéo được rất nhiều cá. Từ một người nghèo khổ trở nên sung túc, tiếng lành đồn xa, dân làng thấy lạ cho là chuyện thần kỳ, bèn lập miếu thờ bên đầm. Từ đấy miếu linh thiêng, dân làng luôn ra miếu cầu cuộc sống bình yên, mưa thuận gió hoà. Chuyện đến tai vua Lê, nhà vua bèn cử quan văn về tế lễ và phong là Đông Hải đại vương. Nhân dân Mễ Trì đã rước ngài về phối thờ ở đình.

SÔNG 

– – – Sông Sét, Sông Lừ, Sông Kim Ngưu, Sông Kim Giang, cống Ngâu

– – – Phần phía Nam của các con sông chảy từ phía Bắc Thăng Long : Nam Tô Lịch, nam sông Nhuệ

Bộ ba sông Tô Lịch

THIÊN PHÙ : chạy ở Hồ Tây, giao với sông Tô Lịch ở đình Yên Thái, Bưởi, chạy theo đường Lạc Long Quân ra sông Hồng

TÔ LỊCH : Chạy vòng quanh khu trung tâm của Thăng Long rồi đi xuống phía Nam

—o—

Nhị Hà quanh bắc sang đông
Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này

—o—

– Vòng cung phía Đông : chạy từ chợ gạo, khu chân cầu Long Biên, ra Hàng Lược, Hàng Đậu, theo phố Quan Thánh, chạy trước mặt cửa Bắc Hoàng Thành, ra hồ Tây, chay theo phố Đồng Cổ dọc giữa đường Hoàng Hoa Thám và đường Thuỵ Khê, về chợ Bưởi

– Vòng cung phía Bắc : từ chợ Bưởi chạy ra đường Láng

– Vòng cung phía Tây : chạy theo đường Láng

– Vòng cung phía Nam

– – – Giao sông Lừ ở Phương Liệt

– – – Giao sông Sét ở Đầm Sét, Đầm Yên Sở

– – – Giao cầu Ngâu ở làng Ngâu

– – – Giao sông Kim Ngưu ở Đầm Đông Trạch

KIM NGƯU : Chạy phía Nam, giữa các khu đầm mà ngày xưa là Đại Hồ Thăng Long

– chạy từ hồ Đồng Nhân/hồ Thanh Nhàn đến giao đường Kim Ngưu/Trần Khát Chân theo đường Kim Ngưu/Tam Trinh dọc xuống hồ Yên Sở, đổ nước vào hồ Yên Sở

– giao với nhánh phía Đông từ hồ Vĩnh Hoàng đến chân cầu Vĩnh Tuy

– tiếp tục chạy theo đường Kim Ngưu/Tam Trinh dọc xuống hồ Yên Sở, đổ nước vào hồ Yên Sở

– chạy theo bờ bắc của hồ Yên Sở vòng ra ngã ba sông Sét ở Thịnh Liệt

– chạy theo bờ Tây của hồ Yên Sở gặp cống Ngâu

– chạy tiếp theo bờ Tây của Đầm Lớn đến đầm Đông Trạch, găp sông Tô Lịch ở gần chùa Nội Am

SÔNG SÉT

– Bắt nguồn : Sông Tô Lịch/Sông Lừ đoạn Hồ Không quân, Hồ Phương Liệt

– Nhánh lên : Hồ Bảy Mẫu qua Đường Trần Đại Nghĩa (chính là dòng chảy cũ của sông đã bị cống hoá và bi lấp)

– Nhánh xuống : Đi xuống đầm Yên Sở

CỐNG NGÂU : chạy từ khúc quanh của sông Tô Lịch cạnh làng Ngâu, sang phía đông, đi giữa đầm Lớn, hồ câu Tam Trinh và đầm Yên Sở để ra sông Hồng

—o—

Ai về Khương Hạ, Đình Gừng
Dưa chua, cà muối, xin đừng quên nhau
Dù ai buôn đâu bán đâu
Cũng không bỏ được cống Ngâu chợ Chùa

—o—

SÔNG LỪ

– Bắt nguồn : Hồ Xã Đàn đến đoạn Hồ Không quân, Hồ Phương Liệt thì giao với sông Sét

– Đến đầm Đại Từ (giờ là hồ Định Công, hồ Linh Đàm) giao với sông Tô Lịch

YÊN NGƯU – YÊN MỸ

Có một bài đồng dao về ông Ngâu và bà Ngâu, đại diện cho tình yêu đôi lứa và một phiên bản y hệt với tên ông Nhăng bà Nhăng,

Ông Ngâu/Nhăng mà lấy bà Ngâ/Nhăng
Đẻ ra con Rắn Thuồng Luồng cụt đuôi.
Ông Ngâu/Nhăng bảo để mà nuôi.
Bà Ngâu/Nhăng đập chết đem vùi đống tro

Ông Ngâu/Nhăng bảo để bà kho

Bà Ngâu/Nhăng đập chết đem cho láng giềng

Có kho thì kho với riềng

Đừng kho với ớt tốn tiền uổng công

Làng Ngâu hoặc Yên Ngưu

Đặc sản :

– Rượu cúc

https://thanhtri.hanoi.gov.vn/pho-bien-giao-duc-phap-luat/-/asset_publisher/HgNzlI7sMGQj/content/lich-su-ruou-cuc-lang-ngau-tinh-hoa-truyen-thong

Rượu hũ làng Ngâu,

Bánh Đúc trâu làng Tó

—o—

Em là cô gái làng Ngâu

Em đi bán rượu qua cầu gặp anh

Rượu ngon chẳng quản be sành

Áo rách khéo vá hơn lành vụng may

Rượu ngon uống lắm cũng say

Người khôn nói lắm hết hay lại nhàm

—o—

Yên Ngưu đất thực là ương

Kẻ nấu rượu lậu, người thương đó mà”.

—o—

– Lúa : vì có lúa ngon mới có gạo ngon

Lúa làng Ngâu, trâu Yên Mỹ

– Dao phay

Đồn rằng Văn Điển vui thay
Ngoài phố chợ họp năm ngày một phiên
Tàu qua phố dưới, phố trên
Đình thì ở giữa hai bên rặng bàng
Làng Mơ cất rượu khê nồng
Làng Vọng dệt gối, chăn tằm làng Mui
Kẻ Giả thì bán bùi nhùi
Làng Lê bán phấn cho người tốt da
Kẻ Vọng khéo ngọc, khéo ngà
Đưa đem đi bán cho nhà kẻ sang
Kẻ Lủ thì bán bỏng rang
Trên Ô Hàng Đậu lắm hàng nhiều thay
Ngâu, Tựu thì bán dao phay
Dù đem chặt nứa gãy cây lại liền
Trong kho lắm bạc nhiều tiền
Để cho giấy lại chạy liền với dây.

– Trâu Yên Mỹ : Làng Ngâu tên là Ngâu nhưng lai không có trâu, mà trâu nằm bên làng Yên Mỹ

Lúa làng Ngâu, trâu Yên Mỹ

Đình làng Yên Mỹ : Theo các cụ bô lão và nhân dân trong làng xưa kia truyền lại về truyền thuyết mượn đình: ngày xưa có một năm làng Yên Mỹ được mùa, dân trong làng muốn mở hội lớn mời dân “Tứ bàn hàng tổng” tới dự, nhưng hiền nỗi làng nghèo không có đình lớn để vào đám cho trọng thể, lúc đó làng có ông Cảnh trọc là một thầy phù thủy cao tay có nhiều phép thuật đã nói với nhân dân rằng “Tôi sẽ vì đi mượn một cái đình, rước sách xong lại trả cho người ta” dân làng hỏi mượn ở đâu ? ông nói “Làng Trung quan ở bên kia sông” có ngôi đình to đẹp mượn cũng tiện, dân lại hỏi: “phí tổn thế nào ”; ông trả lời, không tốn kém gì mấy, chỉ xin chọn bãi đất rộng đắp cho cái nền đình, trồng cây làm hàng rào và cây leo quanh đình; mọi người đều ưng thuận, đến gần ngày hội làng ông dặn dân làng không được ai mở cửa ra ngoài để ông dùng phép thuật thu nhỏ ngôi đình mượn đình về, trên đường đi bị đắm thuyền, bước lên bè thì bè chìm không đi được ông liền ngả nón đặt đình vào đó để nhờ gió đưa qua sông, hôm sau dân làng ra xem quả thấy 1 ngôi đình đô sộ nguy nga đặt ngay ngắn trên nền đất mà dân làng đã chuẩn bị….

https://thanhtri.hanoi.gov.vn/du-lich-thanh-tri/-/asset_publisher/HgNzlI7sMGQj/content/yen-my-ia-phuong-giau-tiem-nang-phat-trien-du-lich

– Núi Chùa

Ai về Khương Hạ, Đình Gừng
Dưa chua, cà muối, xin đừng quên nhau
Dù ai buôn đâu bán đâu
Cũng không bỏ được cống Ngâu chợ Chùa

Bài ca dao này nói về làng Yên Mỹ, cống Ngâu là cống nối từ làng Ngâu ra sông Hồng và chơ Chùa nằm trên núi Chùa bên làng Yên Mỹ

CÁC LÀNG VỀ GẠO

MỄ TRÌ – Gạo tám

Cốm Vòng, gạo tám Mễ Trì
Tương Bần, húng Láng còn gì ngon hơn
—o—

LÀNG MỌC – Gạo xáo

Kể chơi một huyện Thanh Trì
Mọc thì gạo xáo, Láng thì trồng rau
Đình Gừng bán cá đội đầu
Định Công đan gối, Lủ Cầu bánh trong

—o—

LÀNG NGÂU – Lúa

Lúa làng Ngâu, trâu Yên Mỹ

—o—

Sản vật từ gạo

TỨ KỲ – Bún mát

Bún ngon bún mát Tứ Kỳ
Pháp Vân cua ốc đồn thì chẳng ngoa

LÀNG VÒNG – Cốm

Gắng công kén hộ cốm Vòng
Kén hồng Bạch Hạc cho lòng ai vui
Trách ai lòng dạ đổi thay
Hồng nay để thối, cốm này để thiu.

—o—

Thái Đô làm kẹo mạch nha
Kẻ Vòng làm cốm để mà tiến vua

—o—

Cốm Vòng, gạo tám Mễ Trì
Tương Bần, húng Láng còn gì ngon hơn

LÀNG NGÂU – Rượu

Rượu hũ làng Ngâu,

Bánh Đúc trâu làng Tó

Sản vật của hồ đầm : cá, ốc

– Giáp Nhị

Ai về Giáp Nhị năm xưa
Chê ao thối đặc, chê mưa ngập làng
Chê nhà mái dột, vách tàn
Chê lúa mọc mậm đầu làng, cuối thôn
Giờ về Giáp Nhị một hôm
Khen rau muống tốt nhiều hơn lá rừng
Khen ao lắm cá vẫy vùng
Khen nhà ngói đỏ như vung Hàng Nồi

– ĐẦM SÉT

Dưa La, húng Láng, ngổ Đầm
Cá rô Đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây

—o—

Nhất trong là nước giếng Hồi
Nhất béo nhất bùi cá rô đầm Sét

—o—

Dưa La, húng Láng, ngổ Đầm
Cá rô Đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây

—0—

Huyện Thanh Trì kia làng Thịnh Liệt
Đồn cá rô Đầm Sét là ngon
Bấy lâu cạn nước trơ bùn
Biết rằng hương vị có còn như xưa

—0—

Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần
Nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét.

—o—

– PHÁP VÂN

Bún ngon bún mát Tứ Kỳ
Pháp Vân cua ốc đồn thì chẳng ngoa

—o–

– SỞ MUI, SỞ LỜ

Sở Mui chẳng khác Sở Lờ
Quanh năm cua ốc, be bờ, đắp mương
Sống ngâm thịt chết ngâm xương
Trời ơi có biết trăm đường cực không!

Sản vật : Nhãn lồng làng Quang (Thanh Liệt)

Làng Quang dưa, vải khắp đồng
Ngô khoai khắp ruộng, nhãn lồng xóm Văn

—-o—
Ớt cay là ớt Định Công
Nhãn ngon là loại nhãn lồng làng Quang
—o—
Làng Quang dưa, vải khắp đồng
Ngô khoai khắp ruộng, nhãn lồng xóm Văn

—o—

Hỡi cô đội nón quai thao
Đi qua Thanh Liệt thì vào làng anh
Làng anh Tô Lịch trong xanh
Có nhiều vải, nhãn ngon lành em ăn.

—o—

Huyện Thanh Trì kia làng Thịnh Liệt
Đồn cá rô Đầm Sét là ngon
Bấy lâu cạn nước trơ bùn
Biết rằng hương vị có còn như xưa

—0—

LÀNG TRANH

Đẹp nhất con gái làng Tranh
Chua ngoa làng Nhót, ba vành Kẻ Om

ĐỊA DANH LIỆT – KHƯƠNG – YÊN – NGÂU – TRÌ/ĐÀM – ĐIỂN – GIÁP

– LIỆT : tính từ Bắc xuống Nam

– – – TRUNG LIỆT

– – – PHƯƠNG LIỆT

– – – THỊNH LIỆT

– – – THANH LIỆT : Nhãn lồng làng Quang

– – – TỰU LIỆT

– – – PHÙ LIỆT : Tây Phù Liệt (nay là các xã Tứ Hiệp, Ngũ Hiệp, Liên Ninh), Đông Phù Liệt (nay là Việt Yên (Vẹt), Đông Trạch, Đông Phù (Kẻ Nhót), Văn Uyên)

– HIỆP : tính từ Bắc xuống Nam

– – – TAM HIỆP

– – – TỨ HIỆP

– – – NGŨ HIỆP

– KHƯƠNG

– – – KHƯƠNG THƯỢNG

Nón này em sắm ở đâu
Dọc ngang mấy thước, móc khâu mấy lần
Em mà đáp được như thần
Thì anh trả nón đưa chân anh về
– Nón này em sắm chợ Giầu
Dọc ngang thước rưỡi, móc khâu năm đường
Nón này chính ở làng Chuông
Làng Già lợp nón, Khương Thường bán khua
Hà Nội thì tết quai tua
Có hai con bướm đậu vừa xung quanh
Tứ bề nghiêng nón chạy quanh
Ở giữa con bướm là hình ông trăng
Nón này em sắm tiền trăm
Ai trông cái nón ba tầm cũng ưa
Nón này che nắng che mưa
Nón này để đội cho vừa đôi ta
Nón này khâu những móc già
Em đi thử nón đã ba năm chầy
Muốn em chung mẹ chung thầy
Thì anh đưa cái nón này em xin.

– – – KHƯƠNG TRUNG

– – – KHƯƠNG HẠ

Ai về Khương Hạ, Đình Gừng
Dưa chua, cà muối, xin đừng quên nhau
Dù ai buôn đâu bán đâu
Cũng không bỏ được cống Ngâu chợ Chùa

—o–

Kể chơi một huyện Thanh Trì
Mọc thì gạo xáo, Láng thì trồng rau
Đình Gừng bán cá đội đầu
Định Công đan gối, Lủ Cầu bánh trong

—o—

– – – KHƯƠNG MAI

– – – KHƯƠNG ĐÌNH

– TRÌ (cũng có nghĩa là đầm)

– – – MỄ TRÌ

Cốm Vòng, gạo tám Mễ Trì
Tương Bần, húng Láng còn gì ngon hơn
—o—

– – – THANH TRÌ

Làng Mui thì bán củi đồng
Nam Dư mía mật giàu lòng ăn chơi
Thanh Trì buôn bán mọi nơi
Đồng Nhân, Thúy Ái là nơi chăn tằm
Làng Mơ thì bán rượu tăm
Sở Lờ cua ốc quanh năm đủ đời.
—o—

Kể chơi một huyện Thanh Trì
Mọc thì gạo xáo, Láng thì trồng rau
Đình Gừng bán cá đội đầu
Định Công đan gối, Lủ Cầu bánh trong

—o—

Huyện Thanh Trì kia làng Thịnh Liệt
Đồn cá rô Đầm Sét là ngon
Bấy lâu cạn nước trơ bùn
Biết rằng hương vị có còn như xưa

—0—

– ĐÀM (nghĩa là đầm)

– – – LINH ĐÀM : Hồ Linh Đàm

– – – THANH ĐÀM : Hồ Thanh Đàm (Đầm Thanh Trì)

– ĐIỂN

– – – CỔ ĐIỂN

– – – VĂN ĐIỂN

Nghĩ ra Văn Điển cũng sành
Giò, nem, ninh, mọc, đủ ngành nàng ơi

—o—

Đồn rằng Văn Điển vui thay
Ngoài phố chợ họp năm ngày một phiên
Tàu qua phố dưới, phố trên
Đình thì ở giữa hai bên rặng bàng
Làng Mơ cất rượu khê nồng
Làng Vọng dệt gối, chăn tằm làng Mui
Kẻ Giả thì bán bùi nhùi
Làng Lê bán phấn cho người tốt da
Kẻ Vọng khéo ngọc, khéo ngà
Đưa đem đi bán cho nhà kẻ sang
Kẻ Lủ thì bán bỏng rang
Trên Ô Hàng Đậu lắm hàng nhiều thay
Ngâu, Tựu thì bán dao phay
Dù đem chặt nứa gãy cây lại liền
Trong kho lắm bạc nhiều tiền
Để cho giấy lại chạy liền với dây.
—o—

– NGÂU – NGÂU

– – – KIM NGƯU

– – – YÊN NGƯU – LÀNG NGÂU, CẦU NGÂU, CHÙA NGÂU

– KIM

Làng Mọc thờ đầu,
Lủ Cầu thờ chân,
Pháp Vân thờ mình

– – – Kim Ngưu

– – – Kim Lủ

– – – Đại Kim

– YÊN

– – – YÊN SỞ

– – – YÊN MỸ

– – – YÊN NGƯU

– – – YÊN DUYÊN

– GIÁP :

– – – Giáp Nhất, Nhị, Tam, Tứ … Giáp Bát

Ai về Giáp Nhị năm xưa
Chê ao thối đặc, chê mưa ngập làng
Chê nhà mái dột, vách tàn
Chê lúa mọc mậm đầu làng, cuối thôn
Giờ về Giáp Nhị một hôm
Khen rau muống tốt nhiều hơn lá rừng
Khen ao lắm cá vẫy vùng
Khen nhà ngói đỏ như vung Hàng Nồi
—o—

– LỦ – LỪ – LỮ

– – – Lủ Cầu

Kể chơi một huyện Thanh Trì
Mọc thì gạo xáo, Láng thì trồng rau
Đình Gừng bán cá đội đầu
Định Công đan gối, Lủ Cầu bánh trong

—o—
Làng Mọc thờ đầu,
Lủ Cầu thờ chân,
Pháp Vân thờ mình
—o—

– – – Kim Lũ

Hỡi cô mà thắt bao xanh
Có về Kim Lũ với anh thì về
Kim Lũ có hai cây đề
Cây cao bóng mát gần kề đôi ta
Tình sâu không quản đường xa
Nhà anh cao rộng cũng là nhà em
Nhà anh có con sông êm
Cho em tắm mát những đêm mùa hè.
—o—
– – – Đền Lừ, sông Lừ

– SỞ

– – – Ngã tư Sở

– – – Yên Sở

– – – Sở Lờ, Sở Thượng

Sở Mui chẳng khác Sở Lờ
Quanh năm cua ốc, be bờ, đắp mương
Sống ngâm thịt chết ngâm xương
Trời ơi có biết trăm đường cực không!
– – – Sở Mui
—o—
Làng Mui thì bán củi đồng
Nam Dư mía mật giàu lòng ăn chơi
Thanh Trì buôn bán mọi nơi
Đồng Nhân, Thúy Ái là nơi chăn tằm
Làng Mơ thì bán rượu tăm
Sở Lờ cua ốc quanh năm đủ đời.
—o—

Kẻ Mui anh đã biết chưa
Đàn ông vác nặng be bờ, đắp truông
Mẹ em đẻ em trong buồng
Về sau em lớn quay guồng ươm tơ

—o—

Làng Mui thì bán củi đồng
Nam Dư mía mật giàu lòng ăn chơi
Thanh Trì buôn bán mọi nơi
Đồng Nhân, Thúy Ái là nơi chăn tằm
Làng Mơ thì bán rượu tăm
Sở Lờ cua ốc quanh năm đủ đời.

—o—

Đồn rằng Văn Điển vui thay
Ngoài phố chợ họp năm ngày một phiên
Tàu qua phố dưới, phố trên
Đình thì ở giữa hai bên rặng bàng
Làng Mơ cất rượu khê nồng
Làng Vọng dệt gối, chăn tằm làng Mui
Kẻ Giả thì bán bùi nhùi
Làng Lê bán phấn cho người tốt da
Kẻ Vọng khéo ngọc, khéo ngà
Đưa đem đi bán cho nhà kẻ sang
Kẻ Lủ thì bán bỏng rang
Trên Ô Hàng Đậu lắm hàng nhiều thay
Ngâu, Tựu thì bán dao phay
Dù đem chặt nứa gãy cây lại liền
Trong kho lắm bạc nhiều tiền
Để cho giấy lại chạy liền với dây.

– ĐỊNH

– – – Định Công

Ớt cay là ớt Định Công
Nhãn ngon là loại nhãn lồng làng Quang
—0–
Lĩnh hoa Yên Thái
Đồ gốm Bát Tràng
Thợ vàng Định Công
Thợ đồng Ngũ Xã
—0—
Kể chơi một huyện Thanh Trì
Mọc thì gạo xáo, Láng thì trồng rau
Đình Gừng bán cá đội đầu
Định Công đan gối, Lủ Cầu bánh trong

KẺ

– KẺ NHÓT Đông Phù

– KẺ LỦ (KIM LŨ)

– KẺ OM

– KẺ VÀNH

– KẺ VẸT (VIỆT YÊN)

Chia sẻ:
Scroll to Top