ĐẦM/ĐÀM/TRÌ – MƯƠNG/CỐNG – HỒ/AO/CHUÔM
QUẬN HAI BÀ TRƯNG
– Hồ Đồng Nhân đền Hai Bà Trưng
– Hồ Thanh Nhàn – Hồ Giang – Hồ Quỳnh
– Hồ Ba Mẫu – Hồ Bảy Mẫu – Hồ Thuyền Quang
QUẬN ĐỐNG ĐA
– Hồ Xã Đàn
– Hồ Hố Mẻ – Hồ Không Lực
– Hồ Linh Quang
– Hồ Văn Chương
QUẬN HOÀNG MAI
– Hồ Định Công
– Hồ Linh Đàm : Đầm Đại Từ – Hồ Linh Đàm (Long Đàm, Đàm Linh Đường) – Đầm Pháp Vân : https://nhandan.vn/ho-linh-dam-post561077.html
Đầm Đại Từ hoa sen thơm ngát
Giếng Đại Từ nước mát trong xanh
Dòng Tô uốn khúc lượn quanh
Đất nuôi trẻ nhỏ lừng danh trong ngoài.
—o—
– Đầm Sét – Đầm sông Sét – Hồ Yên Sở gồm Đầm Lớn và Hồ câu Tam Trinh
Dưa La, húng Láng, ngổ Đầm
Cá rô Đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây
—o—
Nhất trong là nước giếng Hồi
Nhất béo nhất bùi cá rô đầm Sét
—o—
Dưa La, húng Láng, ngổ Đầm
Cá rô Đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây
—0—
Huyện Thanh Trì kia làng Thịnh Liệt
Đồn cá rô Đầm Sét là ngon
Bấy lâu cạn nước trơ bùn
Biết rằng hương vị có còn như xưa
—0—
Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần
Nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét.
Long Ðàm hay Linh Ðàm ngày nay, theo truyền thuyết là nơi ở của Long Vương, người con của Long Vương là học trò Chu Văn An. Theo sự tích Ðức thành Thủy thần tại Liếu Xạ Can, tức Miếu Trà Gàn, nơi thờ người học trò thủy thần ở phía nam hồ Linh Ðàm thì vào thời Chu Văn An dạy học ở Trang Cung Hoàng, tại Ðầm Sen xuất hiện một chàng trai trẻ, vẻ nho phong lên xin học, người học trò khiêm tốn nói về thân phận của mình, thầy Chu nghe xong bảo rằng đã hiếu học thì bất kỳ ai cũng học được, miễn là chịu khó. Thầy Chu dạy ân cần, trò chăm chỉ, nên chữ của thầy, lời thầy vâng giảng cứ thấm sâu vào tâm trí người học trò ấy. Vào một năm trời nắng nóng kéo dài, ruộng đồng khô nẻ, lúa chết, cá cua cũng chết. Thầy Chu suy nghĩ thăm dò rồi bàn cùng môn đệ tìm cách chống hạn, cứu lúa, cứu dân. Người học trò thủy thần thưa trình thầy, xin thầy cho dùng bút nghiên mài mực, vẩy khắp bốn phương cầu đảo trời xanh. Bỗng mây đen ùn ùn kéo đến, mưa xối xả. Cả vùng hồ và đồng ruộng nước ngập tràn, cá tôm bơi lội, đồng ruộng tốt tươi. Truyền thuyết kể rằng, sau khi làm mưa, mực rơi xuống Ðầm Vĩnh Quỳnh biến thành Ðầm Mực, còn bút rơi xuống làng Tó (Tả Thanh Oai), nơi sau này phát tích dòng họ Ngô Gia Văn Phái, có sáu người đỗ tiến sĩ. Nhưng người học trò đã phải về chịu tội với Long Vương, một tiếng sét đánh xuống mặt hồ, xác thuồng luồng nổi lên trôi về phía Cầu Bươu. Tương truyền đó là xác người học trò Thủy thần. Nơi hóa của người học trò Thủy thần được dân lập miếu thờ, tên chữ là Miếu Xạ Can, tức đền thờ Trừ nạn hạn hán. Dân các làng trong vùng hồ Long Ðàm cầu được mưa, đồng ruộng tốt tươi, nên làng nào cũng lập đền thờ người học trò Thủy thần, được Vua phong là Bảo Linh vương. Nhưng nơi thờ chính vẫn là Miếu Trà Gàn ở làng Bằng Liệt. Hằng năm vào ngày 16-8, ngày hóa của người học trò Thủy thần, dân bảy làng trong vùng lại tổ chức nước Thánh và làm lễ tế thần ở Miếu Trà Gàn. Có lẽ vì tính linh thiêng của vị thánh này mà hồ được mang tên là Linh Ðường, rồi Linh Ðàm (Hồ Thiêng).
Một thuyết khác được ghi trong thần phả làng Tứ Kỳ, thì người học trò này là con trai của bà Loan Nương, quê ở Tức Mặc, Nam Ðịnh, lên tu ở Chùa Tứ Kỳ. Nhà nghèo nhưng siêng năng, cậu thường bơi thuyền trên hồ sen câu cá, rồi một hôm cậu bơi thuyền qua sông Tô Lịch đến trang Cung Hoàng xin học thầy Chu. Việc cầu mưa không phải là việc làm xa lạ đối với thời bấy giờ. Rất có thể người học trò này cùng với các môn đệ khác của thầy Chu đã làm việc cầu mưa. Và trời mưa xuống là sự tất nhiên của trời đất “nắng hạn thì sẽ gặp mưa rào” và sấm sét làm chết người cũng có thể xảy ra. Và thế là truyền thuyết về người học trò Thủy thần của Chu Văn An dùng bút mực cầu trời mưa, được hình thành trong dân gian.
Hệ thống đền đinh chùa liên quan : Miếu Trà Gàn ở làng Bằng Liệt, Miếu Xạ Can, Câu Bươu, Đầm Mực, Đình, Chùa Tứ Kỳ, Ðình Chùa Linh Ðàm, Đình Chùa Pháp Vân
– Đầm Mực
– Đầm Sòi – Đầm Dọc Ngang – Đầm Hồng
– Hồ Không Quân – Hồ Phương Liệt
– Hồ đền Lừ
– Hồ Vĩnh Hoàng
– Hồ Thanh Trì – Hồ Vĩnh Hưng
HUYỆN THANH TRÌ
– Hồ Thanh Liệt
– Đầm Quang Lai
– Đầm Đông Trạch
– Đầm Vạn Xuân,
– Đầm Mễ Trì – Đầm trong trung tâm Hội nghị Quốc Gia – Miếu Đầm, Miếu Quán Đầm thờ Đông Hải Đại Vương
Truyền thuyết dân gian kể rằng: Vùng Mễ Trì thuở hồng hoang có nhiều hồ đầm ngòi lạch. Thuở ấy ở Mễ Trì, có hai vợ chồng tuổi đã xế chiều, làm nghề đánh cá. Ông bà là người tu nhân tích đức luôn làm điều thiện, nhưng tuổi cao mà vẫn chưa có con nối dõi. Một hôm, ông kéo vó trên đầm, kéo mãi mà không được cá, chỉ được một quả trứng có màu sắc lung linh như ngọc. Ông liền đem về cho vào cái chum lớn. Thì lạ thay, khoảng 20 ngày sau, trứng nở ra một con rắn trắng. Ông lão quý rắn lắm, coi rắn như con luôn quấn quýt, ông đi kiếm những bông hoa thơm về nuôi rắn, những lúc phải đi đánh cá kiếm ăn thì ông nhờ bà lão chăm sóc giúp. Thế rồi khoảng 100 ngày sau, một đêm trời bỗng nổi giống tố, mây đen kéo đến đầy trời, sấm vang chớp giật và mưa ào ào trút xuống. Bỗng thấy rắn bò ra khỏi chum và trườn về phía đầm. Không quản phong ba giá lạnh, ông lão chạy theo gọi rắn, tiếng ông vang vọng trong gió mưa nghe đến não lòng não ruột: “Rắn ơi! Về với ta đi! Ta hiếm hoi cũng coi rắn như con, đừng bỏ ta mà đi rắn ơi!”
Mặc cho ông lão gọi đến khản tiếng vẫn không thấy rắn trở lại, ông đứng lặng bên hồ và nghĩ: Chắc rắn là con vua Thuỷ Tề đã được Long Vương gọi về Thuỷ Phủ, nên ông chỉ biết ngậm ngùi quay lại lều cũ. Sáng hôm sau, trời quang mây tạnh, ông lão lại ra bờ đầm kéo cá. Đứng trên bờ đầm, ông khẽ khấn “Rắn ơi, nếu quả là linh thần hãy phù hộ cho ta kiếm được nhiều cá”. Ông vừa dứt lời thì lạ thay, mặt hồ rực lên một ánh hào quang chói lọi. Quả nhiên từ đấy, ông lão kéo được rất nhiều cá. Từ một người nghèo khổ trở nên sung túc, tiếng lành đồn xa, dân làng thấy lạ cho là chuyện thần kỳ, bèn lập miếu thờ bên đầm. Từ đấy miếu linh thiêng, dân làng luôn ra miếu cầu cuộc sống bình yên, mưa thuận gió hoà. Chuyện đến tai vua Lê, nhà vua bèn cử quan văn về tế lễ và phong là Đông Hải đại vương. Nhân dân Mễ Trì đã rước ngài về phối thờ ở đình.
Bộ ba sông Tô Lịch
THIÊN PHÙ : chạy ở Hồ Tây, giao với sông Tô Lịch ở đình Yên Thái, Bưởi, chạy theo đường Lạc Long Quân ra sông Hồng
TÔ LỊCH : Chạy vòng quanh khu trung tâm của Thăng Long rồi đi xuống phía Nam
—o—
Nhị Hà quanh bắc sang đông
Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này
—o—
– Vòng cung phía Đông : chạy từ chợ gạo, khu chân cầu Long Biên, ra Hàng Lược, Hàng Đậu, theo phố Quan Thánh, chạy trước mặt cửa Bắc Hoàng Thành, ra hồ Tây, chay theo phố Đồng Cổ dọc giữa đường Hoàng Hoa Thám và đường Thuỵ Khê, về chợ Bưởi
– Vòng cung phía Bắc : từ chợ Bưởi chạy ra đường Láng
– Vòng cung phía Tây : chạy theo đường Láng
– Vòng cung phía Nam
– – – Giao sông Lừ ở Phương Liệt
– – – Giao sông Sét ở Đầm Sét, Đầm Yên Sở
– – – Giao cầu Ngâu ở làng Ngâu
– – – Giao sông Kim Ngưu ở Đầm Đông Trạch
KIM NGƯU : Chạy phía Nam, giữa các khu đầm mà ngày xưa là Đại Hồ Thăng Long
– chạy từ hồ Đồng Nhân/hồ Thanh Nhàn đến giao đường Kim Ngưu/Trần Khát Chân theo đường Kim Ngưu/Tam Trinh dọc xuống hồ Yên Sở, đổ nước vào hồ Yên Sở
– giao với nhánh phía Đông từ hồ Vĩnh Hoàng đến chân cầu Vĩnh Tuy
– tiếp tục chạy theo đường Kim Ngưu/Tam Trinh dọc xuống hồ Yên Sở, đổ nước vào hồ Yên Sở
– chạy theo bờ bắc của hồ Yên Sở vòng ra ngã ba sông Sét ở Thịnh Liệt
– chạy theo bờ Tây của hồ Yên Sở gặp cống Ngâu
– chạy tiếp theo bờ Tây của Đầm Lớn đến đầm Đông Trạch, găp sông Tô Lịch ở gần chùa Nội Am
SÔNG SÉT
– Bắt nguồn : Sông Tô Lịch/Sông Lừ đoạn Hồ Không quân, Hồ Phương Liệt
– Nhánh lên : Hồ Bảy Mẫu qua Đường Trần Đại Nghĩa (chính là dòng chảy cũ của sông đã bị cống hoá và bi lấp)
– Nhánh xuống : Đi xuống đầm Yên Sở
CỐNG NGÂU : chạy từ khúc quanh của sông Tô Lịch cạnh làng Ngâu, sang phía đông, đi giữa đầm Lớn, hồ câu Tam Trinh và đầm Yên Sở để ra sông Hồng
—o—
Ai về Khương Hạ, Đình Gừng
Dưa chua, cà muối, xin đừng quên nhau
Dù ai buôn đâu bán đâu
Cũng không bỏ được cống Ngâu chợ Chùa
—o—
SÔNG LỪ
– Bắt nguồn : Hồ Xã Đàn đến đoạn Hồ Không quân, Hồ Phương Liệt thì giao với sông Sét
– Đến đầm Đại Từ (giờ là hồ Định Công, hồ Linh Đàm) giao với sông Tô Lịch
YÊN NGƯU – YÊN MỸ
Có một bài đồng dao về ông Ngâu và bà Ngâu, đại diện cho tình yêu đôi lứa và một phiên bản y hệt với tên ông Nhăng bà Nhăng,
Ông Ngâu/Nhăng bảo để bà kho
Bà Ngâu/Nhăng đập chết đem cho láng giềng
Có kho thì kho với riềng
Đừng kho với ớt tốn tiền uổng công
Làng Ngâu hoặc Yên Ngưu
Đặc sản :
– Rượu cúc
https://thanhtri.hanoi.gov.vn/pho-bien-giao-duc-phap-luat/-/asset_publisher/HgNzlI7sMGQj/content/lich-su-ruou-cuc-lang-ngau-tinh-hoa-truyen-thong
Rượu hũ làng Ngâu,
Bánh Đúc trâu làng Tó
—o—
Em là cô gái làng Ngâu
Em đi bán rượu qua cầu gặp anh
Rượu ngon chẳng quản be sành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may
Rượu ngon uống lắm cũng say
Người khôn nói lắm hết hay lại nhàm
—o—
Yên Ngưu đất thực là ương
Kẻ nấu rượu lậu, người thương đó mà”.
—o—
– Lúa : vì có lúa ngon mới có gạo ngon
– Dao phay
Đồn rằng Văn Điển vui thay
Ngoài phố chợ họp năm ngày một phiên
Tàu qua phố dưới, phố trên
Đình thì ở giữa hai bên rặng bàng
Làng Mơ cất rượu khê nồng
Làng Vọng dệt gối, chăn tằm làng Mui
Kẻ Giả thì bán bùi nhùi
Làng Lê bán phấn cho người tốt da
Kẻ Vọng khéo ngọc, khéo ngà
Đưa đem đi bán cho nhà kẻ sang
Kẻ Lủ thì bán bỏng rang
Trên Ô Hàng Đậu lắm hàng nhiều thay
Ngâu, Tựu thì bán dao phay
Dù đem chặt nứa gãy cây lại liền
Trong kho lắm bạc nhiều tiền
Để cho giấy lại chạy liền với dây.