VUA
Vua là vị quân chủ đứng đầu và làm chủ một vùng không gian.
Trong lịch sử dòng chính thống chúng ta có các vua sau (xin chỉ nêu tên vua mở đầu, đại diện cho cả dòng mà có thể có nhiều vua)
– Vua Kinh Dương Vương
– Vua Hùng Vương
– Vua An Dương Vương
– Vua Triệu
– Vua Lý Nam Đế (Tiền và Hậu) & vua Triệu Việt Vương
– Vua Mai Hắc Đế
– Vua Phùng Hưng
– Dòng vua họ Khúc
– Dòng vua Ngô & Dương Tam Kha
– Dòng vua Đinh Bộ Lĩnh
– Dòng vua Lê Đại Hành
– Nhà Lý
– Nhà Trần
– Dòng vua Hồ
– Nhà Hậu Lê
– Nhà Mạc
– Nhà Nguyễn
Ngoài ra còn có nhiều vị vua của các địa phương và vua của các dân tộc thiểu số mà có được tính định hình lãnh thổ và kinh đô rõ ràng, mà nói chung không được lịch sử chính thống công nhận
– Các vua cát cứ ở một vùng đất trong môt thời gian đặc biệt là vùng biên giới phía Bắc, phía Tây và phía Nam
– – – Vua các đồng bào dân tộc phía Bắc như vua Mèo, vua Thái
– – – Vua của các đồng bào dân tộc Tây Nguyên như vua Lửa
– – – Vua của đồng bào dân tộc miền Trung và miền Nam như Vua Chăm, vua Khơ me
– Thủ lĩnh các xứ quân mà có biên giới lãnh thổ rõ ràng như
– – – Thủ lĩnh 12 xứ quân thời loạn 12 xứ quân
– Thủ lĩnh các cuộc khởi nghĩa, đã xưng vương và có thành luỹ, biên giới lãnh thổ rõ ràng, đặc biệt giai đoạn Lê – Trinh – Mạc – Nguyễn như
– – – Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ,
– – – Hoàng Công Chất …
Có vua ông và có vua bà, nhưng trong lịch sử chủ yếu là vua ông. Trong lịch sử chính thống nước ta, thường chỉ nhắc tới hai vua bà, đều rơi vào thời kỳ đầu Công Nguyên là
– Bà Trưng
– Bà Triệu
Một số vị nhiếp chính khi chồng là vua đi đánh giặc hay khi con là vua còn nhỏ, cũng có thể được gọi là vua bà như
– Đại Thắng Minh hoàng hậu (Dương Vân Nga) nhiếp chính khi Đinh Tiên Hoàng mất và con trai, là vua còn nhỏ, có Lê Hoàn phụ tá
– Linh Nhân Thái hậu (Nguyên phí Ỷ Lan) thay Lý Thánh Tông điều hành đất nước khi vua đi đánh giặc, có Lý Thường Kiệt và Lý Đạo Thành phụ tá
– Tuyên Từ Nguyễn Thái hậu thời Lê Nhân Tông có Nguyễn Xí và Trịnh Khả phụ tá
===
CHÚA
Chúa là vị giữ gốc của một dòng máu, mà có thể gọi là tổ, và được thờ như thờ tổ về dòng máu. Về nguyên tắc đã có Chúa Cha là phải có Chúa Mẹ, vì con cái luôn sinh ra từ sự kết hợp của cả cha và mẹ, nhưng trong tự nhiên có các loài như ong, mối, kiến … chỉ có con chúa là con cái.
Nếu vua gắn với tính định hình và định vị quốc gia, thì Chúa gắn với khái niệm dòng máu gắn với đất nước và xứ sở. Cơ bản vua gắn với quản trị không gian, còn chúa gắn nhiều hơn với vân hành sự sống theo thời gian, mà không gian sống có thể ổn định hoặc linh hoạt.
Không phải đến chúa Trịnh, chúa Nguyễn mới có Chúa, mà các Chúa luôn song song tồn tại với các vua ở mọi thời kỳ lịch sử của Việt Nam mà còn lưu danh như
– Chúa Lự ít nhất có 19 đời cai quản xứ Mường Thanh
– Chúa Thái
– Chúa Bầu
– Chúa Trịnh
– Chúa Nguyễn
Phương Nam có rất nhiều Chúa bà, trong đó quan trong nhất bà Chúa Xứ, mà mang nặng tính huyền sử hơn là chính sử
– Tháp bà Po Nagar ở Nha Trang, thờ bà Po Nagar, tên tiếng Việt là Thánh Mẫu Thiên Y A Na
– Điện Trường Bà (Quảng Ngãi) thờ bà Thiên Y A Na
– Bà Thiên Y A Na được thờ riêng nhiều nơi hoăc phổi thờ ở miếu, điện, đền, dinh và đình … không thể kể hết tên vì rất nhiều
– Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam Bà chúa Xứ Núi Sam, Châu Đốc (An Giang)
– Bà Chúa Xứ Nền Chùa ở Tân Hội tỉnh Kiên Giang
– Bà Chúa Xứ Gò Tháp ở Mỹ An tỉnh Đồng Tháp
– Bà Đen ở núi Bà Đen, tỉnh Tây Ninh chính là bà Chúa Xứ
– Bà Rạ ở núi Bà Rạ, tỉnh Bình Phước chính là bà Chúa Xứ
– Bà Rịa mà có lăng mộ ở huyện Long Đất tỉnh Bà Rịa chính là hiện thân của bà Chúa Xứ
– Bà Chiểu ở Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) cũng chính là hiện thân của bà Chúa Xứ
– Bà chúa Xứ còn được thờ ở nhiều nơi ở miền Nam không có định danh cụ thể và tích cụ thể nhưng thường ở nơi có các di tích cổ. Ví dụ tại Biên Hoà
– – – Bà Chúa Xứ được thờ riêng biệt tại miếu Bà Chúa Xứ (P.Bửu Long, TP.Biên Hòa), miếu Bà (P.Tân Tiến, TP.Biên Hòa), miếu Bà (P.Bửu Hòa, TP.Biên Hòa)
– – – Bà Chúa Xứ thờ phối tự tại nhiều đình làng như: đình Bình Tự, đình Bình Thiền, đình Tân Lại…
Ngoài Bắc cũng có các bà Chúa mà chia làm hai nhóm
– Bà Chúa của hệ thống đạo Mẫu tam phủ, tứ phủ mà tiêu biểu là
– – – Chúa Thượng Thiên, Mẫu Liễu Hạnh
– – – Chúa Thượng Ngàn
– – – Chúa Sơn Trang
– Bà Chúa nằm ngoài hệ thống đạo Mẫu
Một số bà Chúa của các không gian hoặc của địa phương rất giống với bà Chúa Xứ hoặc là con, cháu, người hỗ trợ cho bà Chúa Xứ
– Thánh Mẫu Thăng Long được thờ ở đền Mẫu Thăng Long có vai trò không khác gì bà Chúa Xứ Thăng Long
– Bà Chúa Năm Phương thời vua Ngô Quyền cũng rất giống với bà Chúa Xứ, gắn với mảnh đất Hải Phòng
– Bà Chúa Lộc, mẹ ông Hoàng Mười gắn với xứ Nghệ
– Bà Chúa Nguyễn Hoàng Bà Xa gắn với Lào Cai
Một số bà Chúa gắn với các dân tộc ‘
– Bà Chúa Then của người Nùng, Tày, Thái
– Bà Chúa Bầu
Môt số bà Chúa gắn với các nghề nghiệp
– Bà Chúa Kho
– Bà Chúa Dệt như
– – – bà chúa dệt lĩnh Phạm Thị NGọc Đô (gốc Chăm) làng Trích Sài, Hồ Tây, Hà Nội
– – – bà chúa dệt vải nàng La
– – – bà chúa nghề tằm Quỳnh Hoa
– Bà Chúa dạy các nghề khác cho dân
===
QUAN HỆ CỦA VUA & CHÚA
Trong miền Nam và miền Trung, dân muốn an cư ở vùng đất nào đều lập miếu thờ bà Chúa Xứ của vùng đó và tại vùng đó, cho nên có rất nhiều nơi thờ bà Chúa Xứ. Liên hệ giữa vua của vùng đất và bà Chúa Xứ là
– Bà Chúa Xứ sinh ra toàn bộ vùng đất, gồm đất, nước, núi, sông, mây gió … cùng toàn bộ sinh vật sinh sống trên vùng đất bao gồm con người. Bà Chúa Xứ không chỉ là mẹ đất hay thánh mẫu theo nghĩa thông thường mà chúng ta nghĩ là mẹ đất chỉ sinh ra đất hay thánh mẫu sinh ra người. Ở một số nơi bà Chúa Xứ được coi là thành hoàng bản cảnh nhưng vai trò cua bà Chúa Xứ lớn hơn nhiều.
– Vua là một người con của bà Chúa Xứ, được chọn để thay mặt bà Chúa Xứ cai quản vùng đất và dân cư sống trên đất.
Trong phong tuc người bản xứ phương Nam, thờ vua cũng đồng thời là thờ bà Chúa Xứ, Trong các bệ thờ của người bản xứ phương nam
– Yoni chính là biểu tượng của Bà Chúa Xứ, chứ không phải là cái bệ tượng
– Tượng vua được đặt trong yoni vì vua được sinh ra bởi bà Chúa Xứ. Có những thời, cả thời thịnh và thời loạn, mà có nhiều vua, mỗi vua cai quản một vùng đất, thì các vị vua ấy cũng đều là con của bà Chúa Xứ.
– Nếu không có tượng vua mà có linga thì linga là Chúa Cha, đối xứng với Chúa Mẹ, yoni.
Vua Po Klong Garai và vua Po Rome hai vị vua Chăm vẫn được thờ ở tháp Chăm Phan Rang đều được sinh ra bởi sự kết hợp của một bà mẹ đơn thân với nguồn nước thiêng, nói cách khác chính là sự hoá thân của mẹ Xứ sở
Với người Chăm, vua Xứ sở là con của mẹ Xứ sở đương nhiên, nhưng người Việt cũng có câu chuyện về những ông vua hay các vị thần là con của mẹ Xứ sở .
– Vua Lý Công Uẩn được sinh ra một cách bí ẩn với số phận trở thành một ông vua. Mẹ ông, bà Phạm Thị được coi như một vị Phật nhưng thật ra bà là hiện thân của mẹ Xứ sở
– Thánh Gióng cũng được sinh ra một cách ly kỳ từ sự kết hợp của đất mẹ và một người mẹ đơn thân, mà cũng là hiện thân của mẹ Xứ sở
Thực ra, ở đâu có đất nước, ở đó có bà Chúa Xứ, chẳng phân biệt Nam hay Bắc. Có điều, trong Nam tính mẫu hệ của người dân bản địa còn mạnh, nên giữ được phong tục thờ bà Chúa Xứ. Nhiều người, đặc biệt người ngoài bắc mà hàng trăm nghìn năm nay sống trong chế độ phụ hệ cho rằng yoni chỉ là cái bệ thờ mà thôi, còn tượng vua mới quan trọng.
Bà Chúa Xứ (hay Thiên Y A Na) còn được phối thờ với các vị có công lập làng, lập chợ, khai hoang, trấn giữ vùng đất và và các vị thành hoàng bản cảnh, bởi vì những người này có vai trò chả khác nào là vua xứ sở nên đương nhiên phải được thờ cùng Mẹ xứ sở.
Các ví dụ tiêu biểu về việc thần thánh hoá những vị mở đất và gắn họ với bà Chúa Xứ trong cả thờ cúng và lễ hội là trường hợp
– Bà chúa xứ núi Sam Châu Đốc và Thoại Ngọc Hầu
– Bà chúa xứ Đồng Tháp Mười và Võ Duy Dương (Thiên hộ Dương)
Một ví dụ khác là Lăng ông – Bà Chiểu ở Gia Định (nay là thành phố Hồ Chí Minh)
– Bà Chiểu là bà Chúa Xứ. Nhà văn Sơn Nam cho rằng, Bà Chiểu là tên vùng đất xuất hiện từ thời vua Tự Đức, tức trong khoảnh thời gian từ năm 1847 đến năm 1883. Chiểu có nghĩa là ao nước thiên nhiên. Bà Chiểu là “nữ thần được thờ bên ao thiên nhiên”. Còn tác giả Trần Nhật Vy trong cuốn Từ Bến Nghé đến Sài Gòn, cho rằng trước đây chợ Bà Chiểu quay mặt ra một rạch nhỏ ăn từ kênh Nhiêu Lộc trở vào. Hai giải thích về tên gọi Bà Chiểu đều thống nhất rằng có khu vực nước nôi tự nhiên trước mặt chợ cũ, được người dân tin tưởng dựng ngôi miếu nữ thần thờ bên ao nước gọi là Bà Chiểu.
– Lăng ông là lăng Lê Văn Duyệt. Sinh thời Lê Văn Duyệt có quan hệ rất tốt với dân bản xứ, và được coi như thay mặt vua Gia Long ở đất Gia Đinh. Đấy là lý do, vua Minh Mạng, người đi theo xu hướng tập trung quyền lực về Huế, đã bỏ sự tự trị của người Chăm có được thời Gia Long, cũng như giảm rất nhiều quyền lực của quan chức địa phương đã đợi đến Lê Văn Duyệt chết đi để “xử” vị công thần này. Câu chuyện tương tự xảy ra với Thoại Ngọc Hầu xứ An Giang.
Một ví dụ khác nữa là bà Chúa Lộc, thờ ở đền Truông Bát (Hà Tĩnh) giống như là hiện thân bà Chúa Xứ của xứ Nghệ, và con bà là ông Hoàng Mười, là ông Hoàng của Xứ Nghệ (mà bao gồm cả Hà Tĩnh và Nghệ An).
Các vị vua của Việt Nam rất khác với các vị vua của Trung Quốc, bởi vì họ đều là vua chúa, theo nghĩa là các vị vua Việt Nam đều đại diện cho cả dòng máu và lãnh thổ, chứ không chỉ đại diện cho lãnh thổ như vua Trung Quốc. Các triều đại của Việt nam do đó đều được gọi theo tên dòng họ như Đinh, Lê, Lý, Trần.
Trong các vị vua Việt, có một số vị có tính Chúa rất mạnh, nói cách khác họ vừa là vua vừa là chúa
– Hậu Lý Nam Đế : Hai vua Lý Nam Đế có cùng tên vì thực chất một người là vua và một người là chúa : Tiền Lý Nam Đế là vua, mà Hậu Lý Nam Đế là chúa. Một trong các ý nghĩa của cái tên Lý Nam Đế chính là về Mẫu xứ sở.
– Vua Phùng Hưng thực chất là Chúa nên xưng danh của ông là Bố Cái Đại Vương
– Vua Gia Long là người chuyển đổi thời kỳ giữa Chúa Nguyễn và Vua Nguyễn
Trong lịch sử các triều đại luôn có hiện tượng xuất hiện một hoặc một vài vị nhân thần tiêu biểu, mà công trạng với triều đại dường như rất bình thường hoặc khó mà đánh giá được theo tiêu chí thông thường, nhưng họ lại được phong thần, phong thánh và được thờ cúng ở trên một địa bàn rộng lớn với số điểm thờ hơn hẳn tổng số đền thờ của tất các đời vua của toàn triều đại cộng lại. Mặt khác các vua thường giấu mộ, hoặc có công bố mộ chỉ là mộ giả, mộ gió vì sợ đời sau phá mộ, còn các vị nhân thần thì thường hoá, ở các địa điểm rõ ràng. Đền thờ và lăng mộ của các vị nhân thần này được các đời vua của triều đại nối tiếp nhau thờ phụng và bảo vệ. Các vị nhân thần thực chất là thuộc dòng chúa, họ xuất hiện để đỡ và cân bằng năng lượng cho dòng vua, nếu không thì dòng vua không thể trụ được, nên các đời vua không thể nào mà không thờ phụng họ. Một số ví dụ
– Tản Viên Sơn Thánh đời vua Hùng vương thứ 18
– Lý Phục Man đời Tiền Lý Nam Đế
– Lý Bát Nhã đời Hậu Lý Nam Đế
– Linh Lang Đại Vương đời nhà Lý
– Trần Hưng Đạo đời Trần
– Lê Khôi đời Lê
Trong các triều đại vua đều có một vị vua, giữ năng lượng Chúa thường mất sớm một cách bí ẩn giữ năng lương khí mộc đỡ cho những người phụ nữ mà thường là hiện thân hay là con của bà Chúa Xứ đi vào dòng máu tôn thất
– Đời Lý : Lý Thánh Tông đỡ cho Nguyên Phi Ỷ Lan và Thương dương Hoàng Hậu
– Đời Lê : Lê Thái Tông
Hiện tượng tương tự xảy ra bên dòng Chăm như
– Vua Chế Mân
– Vua Po Rome
Trong ngôn ngữ, hiện tượng ghép khái niệm “vua” và “chúa” rất rõ với các từ
– Chúa công : là vị chúa làm vua
– Công chúa : là người mang dòng máu của vua, nhưng không kế vị ngôi vua
– Vua chúa
– Vua cha
Vua cha là khái niệm được dùng trong đạo Mẫu, mà phản ánh sự kết hợp giữa vua và chúa. Trong đạo mẫu có bốn vị vua cha
– Vua Cha Ngọc Hoàng (vua Trời – Thiên Đình)
– Vua Cha Diêm Vương (Vua Đất – Diêm Phủ)
– Vua Cha Bát Hải (vua Nước – Động Đình)
– Vua Cha Thượng Ngàn (Nhạc Phủ)
Trong đó
– Vua cha Diêm Vương và vua cha Ngọc Hoàng mạnh về không gian, nghĩa thiên về vua hơn là cha, nên đi cùng các quan, mà cũng là các con
– Vua Cha Nhạc Phủ và Bát Hải thiên về luồng vận hành theo thời gian, nghĩa là thiên về dòng Chúa, làm cha hơn là làm vua, nên đi cùng các con, là các ông Hoàng và liên quan nhiều đến sinh hoạt của người dân, mà cũng là các con.
Tản Viên Sơn Thánh là một hoá thân của Vua cha Nhạc Phủ. Vì là Chúa, nên ông không nhận truyền ngôi của vua Hùng và trong đạo Mẫu ông đứng hàng vua cha, giữ một vai trò to lớn hơn rất nhiều là vai trò kế nghiệp vua Hùng, mà ông sắp xếp cho An Dương Vương.
Vai trò của một vị Chúa với dòng máu và đất nước là rất to lớn, lâu dài phức tạp, và khác hẳn vai trò của một vị vua mà gắn với quốc gia và triều đại, rất xác định về mặt không thời gian.
Xin nêu một số cặp vua chúa ẩn trong lịch sử Việt Nam
– Kinh Dương Vương : Vua – Lạc Long Quân : Chúa
– Mai Hắc Đế : Vua – Phùng Hưng : Chúa
– Tiền Lý Nam Đế : Vua – Hậu Lý Nam Đế : Chúa
– Quang Trung : Vua – Gia Long : Chúa
– Chúa Nguyễn – Vua Nguyễn
Nguyễn có thể nói là dòng họ duy nhất mà chuyển đổi và cân bằng được rõ ràng cả hai vai trò vua và chúa này trong lịch sử Việt Nam.