VÀNG MÃ

Loading

CÁC CÂU HỎI VỀ VÀNG MÃ
Khi chúng còn trẻ, chúng ta nhìn thế giới một chiều, chúng ta không thấy mình có việc gì phải làm hay phải nhờ cậy mà liên quan đến những những cảnh giới khác. Chúng ta bảo nếu Tết không đốt vàng mã sẽ tiết kiệm được bao nhiêu giấy, bao nhiêu diện tích rừng, bao nhiều tiền bạc vật chất. Không ai quy đổi giá trị tiền xu sang khối lượng đồng nhôm, không ai quy đổi giá trị tiền giấy sang khối lượng giấy. Thế mà chúng ta quy đổi ngang giá trị của tiền sang khối lượng vật chất giấy, một việc sai lè lè.
Lớn lên chúng ta sẽ đặt câu hỏi về bản chất của sự việc hơn là về khối lượng vật chất. Câu hỏi là
– Các lễ nào của Tết Nguyên Đán có hoá vàng ? Câu trả lời là tất cả như lễ cúng ông Công ông Táo và lễ cúng Giao Thừa.
– Đốt vàng mã vào lúc nào của lễ đó ? Hóa vàng là sự kiện kết thúc các lễ Tết bao gồm Tết nguyên đán
Các câu hỏi tiếp theo ai biết đặt câu hỏi đã là quý, chẳng mong có câu trả lời
– Đốt vàng mã cho ai ? Không biết.
– Đốt loại vàng mã nào ? Không biết.
– Đốt bao nhiêu vàng mã ? Không biết.
– Trước lúc đốt thì làm gì với vàng mã ? Không biết.
– Sau khi đốt thì làm gì với vàng mã ? Không biết.
– Kết quả đốt vàng mã là gì ? Không biết.
– Kết quả đốt vàng mã phụ thuộc vào yếu tố nào ? Không biết.
Lớn khôn hơn, chúng ta có nhiều sự chấp nhận hơn với hiện thực phức tạp, vượt quá hiểu biết. Lớn khôn hơn, chúng ta cần nhiều sự an tâm hơn về tiền bạc, sức khỏe, công việc, hôn nhân, con cái. Lớn khôn hơn, chúng ta thành tâm chấp nhận sự ngu dốt và cả sự bất an của chính mình và của người khác. Lớn khôn hơn, chúng ta đồng cảm hơn với người khác và trung thực hơn với chính mình. Lớn khôn hơn, chúng ta không kỳ vọng người khác giải đáp thắc mắc cuộc đời cho chúng ta trong đó có thắc mắc về vàng mã.
Chúng ta thử làm những việc cha ông và những người xung quanh cũng làm, thay vì tỏ ra hiểu biết và phán xét. Chúng ta chấp nhận rằng xung quanh mình người đốt vàng mã rất đông, mình không hiểu gì nhưng để yên tâm và hoà đồng, thì mình cũng đốt. Không biết thì đành không biết, cần làm thì vẫn cứ làm thế thôi.
MỤC ĐÍCH ĐỐT VÀNG MÃ
Vàng mã là phương tiện vận hành luồng xuyên cảnh giới, ví dụ giữa thế giới vật lý và thế giới của các gia tiên, giữa thế giới của người dương và người âm, giữa thế giới vật lý và thế giới của các vị thần….  Không có lúc nào mà việc giao các luồng xuyên cảnh giới xảy phức tạp và đa dạng như Lễ Tết, cho nên không thể có một cái Tết hanh thông mà không đốt vàng mã.
Đốt vàng mã giống như gửi một bức thư kèm một số tiền để nhờ ai đó làm hộ một vài việc mà một mình chúng ta lực bất tòng tâm. Mỗi buổi lễ như Giao thừa, cúng ông Công ông Táo, Nhập trạch …. đều có mục đích, chúng ta cố gắng hiểu rõ và trình bày mục đích đó một cách dễ hiểu nhất cho người nhận vàng mã. Ví dụ cuối lễ động thổ, chúng ta đốt vàng mã xin được giúp đỡ để việc xây dựng thuận lợi, nhanh chóng, an toàn, tiết kiệm và xin gửi tiền trước số tiền vàng mã này để bù đắp chi phí phát sinh do việc chúng ta nhờ vả gây ra.
ĐỐI TƯỢNG NHẬN VÀNG MÃ
Gửi thư và gửi tiền sang thế giới khác thì cần biết ai là người nhận. Người nhận của tất cả các vụ hoá vàng cơ bản chỉ gồm hai nhóm :
– Nhóm được chúng ta thờ cúng trên ban thờ gia đình
– Nhóm vong ma cũ trên đất không đi được, vong ma đi lạc vào đất, vong ma bị trấn yểm hay bị dính mắc theo người và nhà đất…
Để đốt vàng mã cho hai đối tượng này, có thể lựa chọn
– Sử dụng hai tập tiền vàng mã đốt cho 2 nhóm đối tượng này
– Sử dụng bốn tập tiền vàng mã : 3 tập dành cho đối tượng được thờ theo đúng trật tư bát hương và đốt theo đúng trật tự khấn 1. thần linh, 2 bà cô ông mãnh và các vị thần xứ sở, 3, gia tiên, tiền tổ và 1 tập cuối đốt cho vong ma cần chuyển tiếp và giải phóng
– Sử dụng ba tập tiền vàng mã : 1 tập dành cho thần linh, 1 tập dành cho cho bà cô ông mãnh, gia tiên tiên tổ và 1 tập dành cho vong ma cần giải phóng hoặc tiếp dẫn
CÁC LOẠI VÀNG MÃ
Vàng mã tiền gồm hai loại chính
– Tiền vàng mã
– Đồ vàng mã
Tiền vàng mã lại gồm hai loại chính
– Tiền vuông dành để cập bến hay ở lại trong một không thời gian. Ví dụ tiêu biểu của tiền vuông là tiền đinh đỏ, đốt để mời ông bà về nhà và ở lại nhà ăn Tết cùng con cháu
– Tiền vàng mã tròn dành để bắt luồng, bắc cầu, di chuyển xuyên qua một không thời gian. Ví dụ tiêu biểu của tiên tròn là tiền xu vàng, đốt để đưa vong ma ra khỏi đất vào lễ Vu Lan
Đinh đỏ và xu vàng là hai loại tiền mã cơ bản nhất mà chúng ta dùng trong gần như trong mọi trường hợp. Không thể chỉ vận hành với một loại tiền vuông hoặc tròn vì đi thì phải có lúc dừng, dừng mãi thì có lúc phải đi, nên chúng ta luôn đốt hai loại này.
Đồ vàng mã cũng gồm hai loại chính
– Sinh vật : tiêu biểu là ngựa mã
– Đồ vật : mũ quan, quần áo, giầy hài, thuyền …
Đơn giản và chắc chắn nhất là hai loại tiền mã cơ bản là xu đỏ va đinh vàng. Tiền đinh vàng (là tiền vuông)
VÀNG MÃ DỞM
Vàng mã bắt chước đồ vật thật và tiền thật gọi là đồ dởm và cũng là vàng mã dởm, nói chung không có giá trị chuyển hoá ở thế giới bên kia khi được đốt.
Tiền in theo mẫu tiền thật do ngân hàng nhà nước phát hành là tiền dởm, không phải là vàng mã. Chúng ta không dùng bất kỳ loại tiền theo mẫu tiền thật ví dụ tiền 500.000 đồng hay tiền 100 đô la để đốt vàng mã, vì đây là tiền dởm.
Tiền thật đốt đi, thì chúng ta mất tiền thật, còn các cảnh giới khác vẫn không dùng được tiền đó. Tiền dởm chúng ta mua bằng tiền thật được đốt đi, thì nó chỉ cháy thành tro, còn các cảnh giới khác vẫn không dùng được tiền đó. Tóm lại, tiền thật và tiền dởm của tiền thật đều không phải là tiền vàng mã và không thể dùng để hoá vàng.
Một số đồ mà làm theo khuôn mẫu thật, không có giá trị của vàng mã, mà chỉ là hàng giả như nhà và xe. Đốt đồ này không chuyển đổi sang được hàng hoá tương tự ở cảnh giới khác.
Nên suy nghĩ thật kỳ khi mua vàng mã dạng mũ áo quan hay thuyền giấy bởi vì chúng ta không biết trật tự quan chức và phương tiện đi lại của hệ thống thần linh, chúng ta không biết cái mình mua là vàng mã hay đồ dởm, chúng ta không thể hiểu nổi làm sao mà các đồ giầy này chuyển được cảnh giới khác, ai nhận chúng và nhận để làm gì. 
VAI TRÒ CỦA NGƯỜI ĐỐT VÀNG MÃ
Vàng mã là quy ước của người đốt vàng mã đồng ý mở cổng và đồng ý chi trả lệ phí trung chuyển và lệ phí ở lại cho các đối tượng đi qua cổng.
Chi phí thực sự mà người đốt vàng mã bỏ ra là
– Tiền thật để mua vàng mã : số vàng mã cần đốt và số tiền cần bỏ ra để mua vàng mã cơ bản rất nhỏ thôi, vì vàng mã chỉ là một dạng quy ước, mật mã ngầm rằng “tôi đồng ý chi trả” cho mục đích của buổi lễ, còn chi trả bao nhiêu đều dựa trên tình hình thực tế, chứ không theo số vàng mã đốt, nên đốt nhiều chỉ tốn tiền, tốn công vô ích mà còn phát sinh nhiều việc làm cho thế giới bên kia.
– Tiền năng lượng để thực sự chi trả : Tiền năng lượng được chi theo tình hình thực tế
– – Lượng tiền năng lượng phù hợp của người đốt vàng mã
– – Năng lực và nhu cầu của đối tượng nhận
– – Tính toán cân đối của thần linh trung gian việc chi trả này
Nếu chúng ta sống ở nước ngoài hay ở các nơi không có bán vàng mã, nhưng chúng ta hiểu là cần vàng mã, thì chúng ta chỉ cần đưa ra cam kết chi trả tiền cho việc cần phải làm là được. Lời cam kết này có hiệu lực tương đương với việc đốt vàng mã.
Nếu chúng ta quên mất hoặc không biết là cần có vàng mã, thì chúng ta sẽ được hỏi để bổ sung hoặc để đưa ra đồng ý chi trả.
Thậm chí nếu chúng ta có sự thấu hiểu về bản chất của vàng mã, chúng ta chỉ cần khấn rõ ràng trong lễ cúng thì tất cả các điều kiện và vận hành liên quan trong đó có chi trả tiền sẽ được các vị thần linh tự động thực hiện.
Nhiều người cầu xin thánh thần việc này việc nọ và đốt vàng mã hoành tráng liên tục trong thời gian dài vì họ nghĩ họ chỉ cần bỏ tiền ra đốt vàng mã thì sẽ nhận về lợi ích lớn hơn và cuối cùng họ sẽ bi suy năng lượng rất năng và trở thành kẻ vay nợ trong thế giới tâm linh.
THẦN LINH QUẢN LÝ VÀNG MÃ ĐÃ ĐƯỢC HOÁ
Tiền là phương tiện trao đổi và nguyên tắc của trao đổi trong mọi cảnh giới là ngang giá, cho nên việc cần chi tiền thì phải có tiền phù hợp để và thiếu tiền thì phải đi vay, chứ không chuyện xin cho tiền bạc ở bất kỳ cảnh giới nào.
Có các vị thần đứng ở vị trí trung gian giữa người đốt vàng mã/cho tiền và người nhận tiền. Vong ma sẽ không nhận được tiền trực tiếp, mà sẽ có đầu mối quản lý. Đầu mối này trong hầu hết các trường hợp thông thường là thần tài và thổ địa.
Không phải chúng ta đốt nhiều thì bên kia nhận được nhiều mà tiền năng lượng sẽ được xuất theo nhu cầu và năng lực thực tế, vàng mã chỉ là quy ước đồng ý xuất kho. Chúng ta xuất kho tiền năng lượng (mà luôn có sẵn từ đầu đời đầu thai) được hay không là do kho có tiền không và chúng ta có khả năng chuyển đổi không. Bên kia có muốn nhận được tiền và nhận được bao nhiều là do cấp thần linh quản lý vàng mã tính toán và phê duyệt.
Ví dụ Vu Lan, sau khi chúng ta làm lễ cúng cô hồn và hoá vàng cho cô hồn, các vị thần linh sẽ thống kê
– có bao nhiêu vong ma cần đi ra khỏi đất
– một số vong ma nhẹ có thể đi được ngay
– một số vong ma nặng chưa xử lý được nhưng lại cần ưu tiên giải phóng khỏi đất
– một số vong ma ở lại chu kỳ sau
Đối tương vong ma nào, cần bao nhiều tiền để di chuyển, cần khi nào, cần như thế nào, là do tính toán và sắp xếp của các vị thần linh.
ĐỐI TƯỢNG NHẬN VÀNG MÃ ĐÃ ĐƯỢC HOÁ
Bất kỳ trao đổi, giao dịch, chuyển dịch và chuyển hoá dù ở bất kỳ cảnh giới nào, đặc biệt giữa các cảnh giới đều cần tiền.
Cơ bản người nào xông xênh tiền năng lượng thì cũng xông xênh tiền vật lý và ngược lại. Tuy nhiên do tiền năng lượng có rất nhiều loại và không phải lúc nào cũng chuyển đổi được sang nhau, cho nên có trường hợp tiền vật lý thì có sẵn mà tiền năng lượng đã hết và ngược lại tiền vật lý thì hết mà tiền năng lượng vẫn còn nhiều. Cũng có trường hợp tiền năng lượng này thừa, tiền năng lượng khác lại thiếu. Tương tự, tiền vật lý để làm việc này thì còn nhưng tiền vật lý để làm việc. Cơ bản một việc luôn cần hai loại tiền vật lý và năng lượng. Ví dụ muốn xây một cái nhà, mà có sẵn cả tiền vật lý và tiền năng lượng cho mục đích này, thì sẽ rất thuận lợi, hoặc có sẵn nhiều tiền năng lượng cho mục đích xây nhà mà tiền vật lý chưa đủ thì sớm muộn cũng có đủ tiền vật lý.
Nhiều vong ma chết kẹt trên đất nhưng không được mở cổng và không có tiền để đi ra khỏi đất, nên chủ đất cần đốt vàng mã cho họ vào ngày Vu Lan là như vậy.
Gia tiên khi về ăn Tết với con cháu, không phải là không có tiền nhưng tiền có thể dùng cho mục đích khác. Đến Tết, khi gia tiên cần vào nhà và ở lại nhà con cháu, thì con cháu phải đồng ý chi tiền và mở cổng nhà mình thì gia tiên mới về được, bởi tiền của con cháu chi thì mới có tác dụng ở nhà con cháu.
Chia sẻ:
Scroll to Top