Tên sông : Sông Tranh
Xứ : Đông
– – – Xứ Đông của Thăng Long : Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình
– – – Đông Bắc Bộ gồm 9 tỉnh nằm trọn vẹn ở phia Đông sông Hồng : Hà Giang, Phú Thọ, Cao Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Bắc Giang, Lạng Sơn và Quảng Ninh (Quảng Ninh là xứ Viễn Đông của Thăng Long).
– – – Xứ Đông của bờ Đông sông Hồng gồm nửa Đông của các tỉnh mà có sông Hồng chảy qua : Lào Cai, Yên Bái
– – – Các địa phương nằm ở bờ Đông sông Hồng nhưng lại thuộc Thăng Long Tứ Xứ, cụ thể Vĩnh Phúc (thuộc xứ Đoài của Thăng Long), Bắc Ninh (thuộc xứ Kinh Bắc của Thăng Long), và các quận huyện Đông Anh, Sóc Sơn, Long Biên, Gia Lâm thuộc Thăng Long, xứ Đoài hoặc xứ Kinh Bắc
Các con sông Tranh của nước ta
– Sông Tranh ở Ninh Giang, Hải Dương là nhánh của sông Luộc, chảy ôm ấp làng Tranh Xuyên thuộc xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, làm biên giới ba tỉnh Hải Dương, Hải Phòng và Thái Bình
– – – Ngã ba sông Tranh, đền Tranh,
– – – Sự tích đức ông Tuần Tranh
– – – Đền Tranh hay đền Ninh Giang Hải Dương
– Sông Tranh ở huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc một đầu nối với sông Phan ở phía Tây Nam và một đầu nối với hô Đại Lải ở phía Đông Bắc, tạo thành hai Ngã ba sông mà đều là các vùng hồ lớn. Có cầu sông Tranh
– – – Đền Tranh còn có tên gọi là đền Bắc Cung thượng ở xã Trung Nguyên, huyện Yên Lạc. Đền nằm trong tứ cung thờ Đức Thánh Tản Viên, 4 cung đó là: Bắc Cung, Tây Cung, Nam Cung, Đông Cung. Bắc Cung là phía Bắc, Đền Tranh còn gọi là Bắc Cung thượng vì ở địa phận xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc có đền Thính cũng thờ Đức thánh Tản Viên được gọi là Đền Bắc Cung.
– Sông Tranh ở Quảng Nam bắt nguồn từ đỉnh núi huyền thoại Ngọc Linh, chảy qua các xã Trà Nam, Trà Cang, qua các bản làng người các dân tộc Co, Ca Dong. Bà con dân tộc ít người gọi sông này là sông Đắc Di, sông Nậm Nin. Trên dòng Nậm Nin có những con suối lớn từ nguồn đổ xuống tạo thành những thác dữ, nước réo ì ầm ngày đêm. Sông Nậm Nin chảy đến đồi Gò Mè, hai nhánh sông nhập dòng tạo thành ngã ba sông. Từ đây mới gọi là sông Tranh. Sông Tranh đổ ra sông Thu Bồn. Trên dòng sông Tranh có cầu sông Tranh và thuỷ điện sông Tranh.
– Sông Tranh (sông Kỳ Cùng) ở Lạng Sơn
– – – Biên giới Việt Trung liên quan đến sông Kỳ Cùng,
– – – Đền Kỳ Cùng và đền Đông (trong bộ đền Đông Tây Nam Bắc quanh Thành cổ Đoài Thành Lạng Sơn)
– – – Sự tích ông Cụt ông Dài
– Sông Đồng Tranh
Thần sông : Đức ông Tuần Tranh là đức ông thứ 5 trong ngũ vị Tôn ông của đạo Mẫu
https://vanhoaxahoi.vn/bai-viet/ngu-vi-ton-ong-trong-tin-nguong-tho-mau-cua-nguoi-viet.phtml
SỰ TÍCH ÔNG CỘC ÔNG DÀI hay SỰ TÍCH SÔNG KỲ CÙNG
– – – 2 vợ chồng cha mẹ nuôi
– – – 2 con rắn : ông Cộc bị cha vô tình làm cụt đuôi & ông Dài
– – – Vợ chồng : ông Trịnh & vợ Dương Thị
– – – Bạch Long Hầu có phận sự làm mưa ở xứ Đông là người giúp ông Trịnh tố cáo ông Cộc với Vua Thuỷ
– – – Vua Thuỷ
– – – Thuồng luồng là người đánh nhau với ông Cộc ở Kỳ Cùng, sau bị vua Thuỷ giao cho thần Núi, đưa ra cái chuông
– – – Thần Núi
– – – Hòn đá là cái đầu của ông Cộc để ở Kỳ cùng, cái đuôi của ông Cộc bị đứt từ đầu đời do bị cha cuốc phải và cuối cùng còn cái thân giữa
Ngày xưa, ở vùng sông Tranh thuộc về tỉnh Đông có hai vợ chồng một nhà nọ, gia tư cũng vào hạng khá, nhưng tuổi già mà chưa có con.
Thường ngày họ cầu trời có một đứa con cho vui tuổi già. Một hôm trong khi ra đồng phát ruộng, người chồng nhặt được hai quả trứng to bằng nắm tay, bèn đưa cho vợ xem. Xem xong, chồng định vứt đi, nhưng người vợ ngăn lại:
– Đừng vứt, cứ để cho nó nở xem thử con gì.
Bèn đưa vè bỏ vào vò đặt bên cạnh bếp. Chỉ trong mấy ngày, trứng nở thành một cặp rắn nhỏ trên đầu có mào đỏ rất xinh. Thấy vậy, người chồng định đánh chết, nhưng vợ ngăn lại:
– Đừng đánh tội nghiệp. Cứ để mặc tôi, tôi nuôi chúng làm con.
Hai con rắn rất khôn, từ đó quấn quít với người, đi đâu cũng đi theo. Chúng chóng lớn, mới bằng chiếc đũa, chẳng bao lâu đã to bằng ngón tay. Một hôm người chồng cuốc vườn, cặp rắn bò theo sát nút để kiếm cái ăn trong đất mới lật. Vô tình một nhát cuốc bổ xuống làm đứt đuôi một con. Con rắn quằn quại. Người vợ kêu lên:
– Chà, tội nghiệp! Mày cứ quẩn bên chân ông lão làm gì cho khổ thân thế này!. Từ đó con rắn bị đứt đuôi ngày một trở nên hung dữ hơn con kia.
Hai con càng lớn càng ăn khỏe. Chúng thường bò vào chuồng gà các nhà lân cận tìm bắt gà con. Bị xóm giềng chửi bới luôn canh, một hôm chồng bảo vợ:
– Thôi! Ta đem thả chúng xuống sông cho chúng kiếm ăn, kẻo để lại có ngày mang họa.
Hai vợ chồng bèn mang cặp rắn đến bờ sông thả xuống và nói:
– Bớ các con! Các con hãy ở đây tự kiếm lấy cái nuôi thân, đừng có trở về, bố mẹ không đủ sức nuôi các con nữa!
Cặp rắn vừa thả xuống nước, lập tức sóng gió nổi lên ầm âm, các loài thủy tộc ở các nơi về tụ hội bơi lượn đông đảo. Hai vợ chồng rất kinh ngạc. Đêm lại, chúng về báo mộng cho họ biết là chúng đã được vua Thủy cho cai quản khu vực sông Tranh.
Từ đó hai con rắn làm oai làm phúc suốt cả một khúc sông rộng. Người ta lập đền thờ chúng bên sông, gọi chúng là Đức ông tuần Tranh, cũng gọi là Ông Dài, ông Cộc. Tuy mọi thứ cần dùng đã có bộ hạ cung đốn đầy đủ, nhưng chúng vẫn thỉnh thoảng bắt súc vật và người qua lại trên sông. Duy ông Cộc bản tính dữ tợn, ngày một trở nên ngang ngược, lại tỏ ra hiếu sắc. Thuyền bè đi qua đó, nó thường xoáy nước nổi sống dữ dội làm cho bị đắm để bắt người lấy của. Mỗi lần nghe tin có xảy ra tai nạn, hai vợ chồng bố mẹ nuôi ông Dài ông Cộc vẫn thường ra bờ sông hết lời van vái con, để mong chúng đỡ phá phách. Chúng cũng có nghe, nhưng rồi chứng nào vẫn tật ấy.
Một hôm, có hai vợ chồng một người họ Trịnh có việc đi thuyền qua đấy đỗ lại. Người vợ là Dương thị vốn người xinh đẹp làm cho ông Cộc mê mẩn. Đêm lại, bỗng dưng từ dưới nước có hai người con gái bước lên thuyền, mỗi người đầu đội một mâm lễ vật. Chúng đặt mâm xuống trước mặt anh học trò và nói:
– Đây là lễ vật của ông Cộc. Đức ông chẳng bao giờ hạ mình làm những việc như thế này, nhưng chỉ muốn nhà thầy vui lòng nhường lại chỗ cho người vợ.
Người học trò chưa bao giờ nghe có chuyện trắng trợn thế ấy, bèn quát:
– Về báo với đức ông chúng mày hãy mau mau bỏ thói ngang ngược. Ta là người đọc sách thánh hiền, không bao giờ ta lại sợ loài quỷ quái.
Chưa dứt lời đã không thấy hai người con gái đâu nữa. Người học trò tuy nói cứng, nhưng vốn từng nghe những câu chuyện về ông Dài, ông Cộc nên cũng có ý sợ. Bèn bảo vợ cầm lấy tay nải rồi cả hai từ giã chủ thuyền bước lên bờ. Nhưng không kịp nữa rồi. Ông Cộc đã nói là làm. Thấy con mồi đã lên bộ, ông bèn đuổi theo, hóa làm một trận mưa bão kinh khủng làm cho họ không thể tiếp tục đi được. Người học trò đành đưa vợ vào trú ở một ngôi đền gần đó. Mưa bão kéo dài suốt đêm. Sáng dậy bão tạnh, người học trò tỉnh dậy đã thấy vợ mình biến đi đâu mất. Anh theo dấu đến bờ sông chỉ còn thấy quần áo của vợ trút bỏ lại đó.
Đau xót vì mất người vợ yêu, anh chàng học Trịnh bèn đi lang thang khắp nơi tìm cách trả thù. Trải qua bao nhiêu ngày tháng. Một hôm qua một cái chợ, anh bỗng gặp một ông thầy bói hình dung cổ quái đang ngồi đón khách. Anh ngồi xuống xin một quẻ về gia sự. Thầy bói gieo quẻ, nói:
– Nhà ngươi đang có sự lo buồn.
Anh đáp lời:
– Xin thầy cứ cho biết.
– Vợ nhà ngươi bị một kẻ có quyền cướp mất.
– Chịu thầy. Xin cho biết vợ tôi hiện nay ở đâu? và có cách gì cứu được vợ tôi không?
– Không giấu gì nhà ngươi, ta vốn là Bạch Long hầu vốn có phận sự làm mưa ở vùng này. Thấy việc tác quái, ta muốn giúp nhà ngươi trả được mối thù. Ta đợi nhà ngươi ở đây đã lâu. Kẻ kia tuy quyền thế nhưng không thể làm loạn chính pháp. Vậy nhà ngươi hãy theo ta. Trước hết hãy dò tìm tung tích vợ ngươi để nắm được chứng cớ đầy đủ.
Người học trò tưởng không còn gì mừng hơn thế nữa, bèn sụp lạy Bạch Long hầu, rồi bước theo bén gót. Đến bờ biển, Bạch Long hầu bảo anh nhắm mắt, đoạn rẽ nước đưa anh đi mãi, đi mãi đến một hòn đảo xa tít ngoài biển Đông. Sáng hôm sau, ông hỏi:
– Ngươi có mang theo vật gì của vợ để nàng làm tin không?
Người học trò đáp: – “Có.” – Nói rồi đưa ra một cành thoa của vợ. Bạch Long hầu cầm lấy đi ngay. Chỉ hai hôm sau, ông đã về kể cho chàng nghe tất cả mọi việc và nói:
– Vợ người vẫn một lòng một dạ với người. Đó là một người thủy chung. Vậy mai đây ta sẽ đưa nhà ngươi đến triều đình đánh trống “đăng văn”, khi đưa nàng ra đối chất, tự nàng sẽ tố cáo kẻ thù. Nhưng ngươi cũng phải viết sẵn một lá đơn kiện mới được.
Chưa đầy ba ngày, vụ kiện của người học trò đã xử xong. Ông Cộc không ngờ Dương thị lại vạch tội hắn trước tòa án vua Thủy, tuy rằng nàng đã sinh với hắn một đứa con. Vua Thủy khi thấy chứng cớ sờ sờ về hành động gian ác của bộ hạ mình thì đùng đùng nổi giận. Vua thét:
– Hãy bắt nó đày đi thật xa cho đến tận cùng của đất nước!
Dương thị được đưa trở về cõi trần với họ Trịnh, hai vợ chồng lại đoàn tụ. Còn đứa bé do Dương thị đẻ ra với ông Cộc thì giao cho ông Cộc nuôi.
Ngày ông Cộc đi đày, tôm cá rắn rết náo động cả một khúc sông Tranh. Quân lính áp giải ông Cộc ra biển rồi đi ngược lên phía bắc. Trải đã nhiều ngày, một hôm họ đến một vùng nhìn vào thấy rừng cây mịt mù, không hề có khói lửa. Ông Cộc hỏi một số người địa phương:
– Đây là đâu?
Họ đáp:
– Nơi đây đã sắp đến địa phận nước Việt rồi. Đi qua nữa là sang nước khác.
Ông Cộc bảo quân lính áp giải:
– Vậy là đã đến chốn kỳ cùng rồi đó. Theo lệnh nhà vua, ta sẽ ở đây.
Cả đoàn bấy giờ rẽ sóng kéo vào cửa sông. Nhưng ở khúc sông này từ lâu vốn có một con thuồng luồng trấn trị. Hắn rất không muốn chia sẻ quyền hành với kẻ mới đến. Cho nên khi thấy ông Cộc tới, lập tức một cuộc giao phong diễn ra dữ dội từ cửa sông vào cho đến thượng nguồn. Nước bắn tung tóe, tôm cá chết như rạ. Hai bên bờ lở sụp, sinh mệnh tài sản của dân ven sông bị thiệt hại rất nhiều. Hai bên đánh nhau mấy ngày không phân thua được. Ông Cộc bị thương tích đầy người, nhưng thần thuồng luồng cũng bị toạc da chảy máu và bị đứt mất một bên tai. Thấy thế, những quân lính áp giải vội chạy về báo cho vua Thủy biết. Cuối cùng việc lại đưa đến tòa án cho vua Thủy. Vua bắt hai bên phải chia đôi khu vực, định lại ranh giới rõ ràng, và từ nay về sau không được xâm lấn của nhau. Ông Cộc bèn cho đưa một tảng đá lớn như hình một cái đầu đặt ở ven sông. Bên phía thuồng luồng cũng làm phép hiện ra một cái chuông úp ở bờ bên này làm giới hạn.
Nhưng thần thuồng luồng vẫn chưa hết giận, vì cho rằng bỗng tự dưng vô cớ bị chia sẻ quyền hành là do ông Cộc mà ra. Bởi vậy thuồng luồng ta thỉnh thoảng lại gây sự đánh nhau với ông Cộc. Dân chúng hai bên bờ sông mỗi lần nghe tiếng chuông, tiếng nước sôi động ầm ầm thì biết rằng sẽ có cuộc giao tranh kịch liệt. Về sau vua Thủy giận thuồng luồng “bất tuân thượng lệnh”, bèn sai quân kéo tới bắt sống, xích lại, giao cho thần Núi địa phương canh giữ, còn ông Cộc từ đấy được cai quản cả hai khu vực.
Ngày nay, bên bờ nam sông Kỳ Cùng, chỗ chân cầu tỉnh lỵ Lạng Sơn còn có một hòn đá lớn như hình cái đầu. Còn bờ bên kia, trong một ngôi chùa cổ còn có cái chuông bị xích, nhưng đã đứt mất một bên tai. Người ta nói cái đầu bằng đá là do ông Cộc đặt làm mốc, còn cái chuông là hiện thân của thuồng luồng bị thần Núi xích tại đây. Cái tên sông Kỳ Cùng cũng xuất phát từ cuộc đày ải ông Cộc mà có.
SỰ TÍCH ĐỨC ÔNG TUẦN TRANH
https://vanhoaxahoi.vn/bai-viet/ngu-vi-ton-ong-trong-tin-nguong-tho-mau-cua-nguoi-viet.phtml
https://nhandan.vn/song-tranh-dong-song-truyen-thuyet-post714483.html
Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh, hay còn gọi là Ông Lớn Tuần Tranh. Ông là con trai thứ năm của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Ông cũng giáng dưới thời Hùng Định Vương (Hùng Triều Thập Bát),trong một gia đình ở phủ Ninh Giang (nay là Hải Dương),ông là vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thuỷ bộ, được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh. Ông đã lập được nhiều công lao to lớn nên được sắc phong công hầu. Tại quê nhà, ông có cảm tình với một người thiếu nữ xinh đẹp, người thiếu nữ ấy vốn là vợ lẽ của quan huyện ở đó, nhưng vốn không hạnh phúc với cảnh “chồng chung”, nàng cũng đáp lại tình cảm của ông mà không hề nói cho ông biết là nàng đã có chồng. Vậy nên Quan Lớn Tuần Tranh vẫn đinh ninh đó là một tình cảm đẹp, hẹn ngày đưa nàng về làm vợ. Đến khi viên quan huyện kia biết chuyện, vu oan cho ông đã quyến rũ vợ mình. Quan Tuần Tranh bỗng nhiên mắc hàm oan, bị đem đày lên chốn Kỳ Cùng, Lạng Sơn. Tại đây, ông đã tự sát mong rửa oan, chứng tỏ mình vô tội, ông hoá xuống dòng sông Kỳ Cùng. Về lại nơi quê nhà, ông hiện thành đôi bạch xà, thử lòng ông bà nông lão, sau đó được ông bà nông dân nuôi nấng như thể con mình. Nhưng khi quan phủ biết chuyện ông bà nông lão tậu gà để nuôi đôi bạch xà, liền bắt ông bà phải lên của công chịu tội và giết chết đôi rắn kia đi. Hai ông bà thương xót, xin thả rắn xuống dòng sông Tranh, lạ thay khi vừa thả đôi bạch xà xuống thì chỗ đó tạo thành dòng xoáy dữ dội. Đến thời Thục Phán An Dương Vương, vua tập hợp thuyền bè để chống Triệu Đà ở ngay bến sông Tranh, nhưng tại chỗ dòng xoáy đó, thuyền bè không tài nào qua được mà lại có cơn giông tố nổi lên giữa dòng. Vua bèn mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo thì lập tức sóng yên bể lặng, hơn nữa, quân sĩ ra trận cũng được thắng to. Ghi nhớ công đức, vua Thục giải oan cho ông và phong là Giảo Long Hầu. Sau này ông còn hiện thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, ra oai giúp dân sát quỷ trừ tà, dẹp hết những kẻ hại nước hại dân.
Ninh Giang, Hải Dương (là nơi chính quán quê nhà của ông, nơi ông trấn giữ duyên hải sông Tranh, cũng là nơi ông hiển tích) và Đền Kỳ Cùng lập bên bến sông Kỳ Cùng, qua cầu Kỳ Lừa (là nơi ông bị lưu đày).
Ngày tiệc chính của quan là ngày 25/5 âm lịch (là ngày ông bị lưu đày và bảo nhân dân quê ông làm giỗ vào ngày này). Ngoài ra vào ngày 14/2, các đền thờ ông cũng mở tiệc đón ngày đản sinh của quan.
CA DAO, TỤC NGỮ
– CHẦU VĂN VỀ ĐỨC ÔNG TUẦN TRANH
Ai về qua bến sông Tranh
Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời
Dẫu rằng nước chảy hoa trôi
Sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi
Loa đồng hỏi nước sông Tranh
Long đao cứu nước, anh hùng là ai?
Sông Tranh đáp tiếng trả lời
Có Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang
– ĐỒNG DAO VỀ ÔNG NHĂNG BÀ NHĂNG hoặc ÔNG NGÂU BÀ NGÂU
“Ông Nhăng mà lấy bà Nhăng
Đẻ được con rắn thằn lằn cụt đuôi
Ông Nhăng bảo để mà nuôi
Bà Nhăng đập chết đem vùi đống tro
Ông Nhăng bảo để bà kho
Bà Nhăng đập chết đem cho láng giềng
Có kho thì kho với riềng
Đừng kho với ớt tốn tiền uổng công”
—o—
“Ông Ngâu mà lấy bà Ngâu
Đẻ được con rắn thằn lằn cụt đuôi
Ông Nhăng bảo để mà nuôi
Bà Nhăng đập chết đem vùi đống tro
Ông Nhăng bảo để bà kho
Bà Nhăng đập chết đem cho láng giềng
Có kho thì kho với riềng
Đừng kho với ớt tốn tiền uổng công”