NÚI : Cánh cung Đông Triều
Cánh cung Đông Triều là tên gọi chung hai dãy núi xếp thành hình cánh cung là
NAM MẪU là dãy núi thấp phía Nam
DÃY YÊN TỬ – HUYỀN ĐINH
– Dãy núi Yên Tử có khoảng 10 đỉnh núi, như Ngũ Nhac, núi Kỳ Lan, núi Thanh Long, núi Bạch Hổ, núi Phượng Hoàng, núi Tổ Sơn, núi Trúc Thôn, … cao nhất là Yên Tử
– Núi Huyền Đinh
– Núi Rồng nơi có đền Côn Sơn Kiếp Bạc
DÃY AM VAP
– Khối núi vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long bao gồm các đảo như Cát Bà, Cát, Hải, Quan Lạn, Cô Tô …
BÌNH LIÊU là dãy núi cao phía Bắc
– Dãy Nam Châu Lãnh có đỉnh Khoáng Nam Châu Lãnh cao 1507 m
– Dãy núi Cao Ly có 8 đỉnh núi cao hơn 1.000m so với mực nước biển, trong đó cao nhất là đỉnh Cao Xiêm với 1.429m. Đỉnh Cao Ly còn gọi là đình Cô Đơn
VÙNG ĐỆM TÂY BẮC
Vùng đồi đá phiến giữa hai dãy Nam Mẫu và Bình Liêu có độ cao tương đối đồng đều, chừng 200–300 m, một số điểm cao 500 m.
– – – Xen giữa vùng này là một vài lòng chảo giữa núi ở hai bên các sông phố Cũ và sông Ba Chẽ
– – – Phía mặt lõm của cánh cung Đông Triều (tức phía tây) là vùng đồi núi thấp Lục Ngạn
VÙNG ĐỆM ĐÔNG NAM
– Bán đảo Đồ Sơn
– Một số núi nhỏ ở Hải Phòng như núi Đèo
Vậy, cánh cung Đông Triều của Quảng Ninh đối xứng với khối núi Bắc Sơn của Lạng Sơn, và đều gồm 2 nửa âm dương
– Mẫu Sơn ở phía Bắc thuộc tỉnh Lạng Sơn đối xứng với Nam Mẫu ở phía Nam thuộc tỉnh Hải Phòng, Hải Dương
– Bắc Sơn ở phía Tây Lạng Sơn là khối núi đá vôi đối xứng với dãy núi Bình Liêu ở phía Đông của Quảng Ninh là núi lửa
CÁC TỈNH/THÀNH PHỐ
HẢI DƯƠNG
– Vùng núi Yên Tử,
– Vùng Côn Sơn, núi Rồng
– Vùng núi nhỏ lẻ phía nam sông Kinh Môn & Kinh Thày
BẮC GIANG
– Vùng núi Huyền Đinh
– Vùng núi thấp Lục Ngạn
HẢI PHÒNG
– Đồ Sơn
– Núi phía nam sông Đá Bạch, Bạch Đằng, sông Cấm
UÔNG BÍ
HẠ LONG
– Am Váp
– Bái Tử Long
– Hạ Long
HÒN GAI
CẨM PHẢ
MÓNG CÁI
– Vùng Bình Liêu
SÔNG :
SÔNG LỤC NAM
SÔNG KINH THÀY
SÔNG KINH MÔN
SÔNG THÁI BÌNH
NÚI ĐÔNG TRIỀU
Ví dù đấy có lòng yêu
Bảo đây gánh đá Đông Triều cũng đi
UÔNG BÍ
Ai đi Uông Bí, Vàng Danh
Má hồng để lại, má xanh mang về
HÒN GAI
Hòn Gai có núi Bài Thơ
Nhác trông đàn khỉ đu đưa trên cành
Đêm nằm nghe vượn cầm canh
Khỉ hời, vượn hỡi thấu tình cho chăng?
—o—
Tìm vào đến mỏ Hòn Gai
Xin làm phu mỏ ở ngay dưới hầm
Cuộc đời vất vả âm thầm
Mông Dương, Cẩm Phả, Hà Lầm đều qua
—o—
Ai đem tôi đến chốn này
Bên kia Vạ Cháy, bên này Bang Gai
Trên đồn có lão quan hai
Cửa Lục tàu đậu một vài chỗ sâu
Thằng Tây mưu mẹo đã lâu
Đóng ba chiếc tầu chạy cạn cả ba
Một chiếc thì chạy Cốt Na
Chiếc vào Hà Sú, chiếc ra Hà Lầm
Mười giờ rưỡi nó kéo còi tầm
Cu li đâu đấy về nằm nghỉ ngơi
Đến mười hai giờ bốn mươi
Síp lê một tiếng muôn người kéo ra
Nó quát một tiếng chẳng là
Nó quát hai tiếng giãn ra hai hàng
Xướng thẻ thì xướng rõ ràng
Nó biên vào sổ đi làm táo tươi
Người thì ghè đá nung vôi
Người thì vác gỗ ai coi cho tường
Người thì xẻ đất đắp đường
Người thì đánh sắt ở trong lò rèn
Người thì xẻ ván đóng xe
Người thì chẻ trúc, chẻ tre đan lồng
Người xe hỏa, người máy rồng
Người biên kho gỗ, người trông kho dầu …
—o—
Đào than cho nó làm giàu
Xúc vàng đem đổ xuống tàu cho Tây
—o—
Tài nguyên than mỏ nước Nam
Thằng Tây làm chủ, mình làm cu li
Chỉ vì đói rách phải đi
Đi làm phu mỏ, bỏ quê, bỏ nhà
Một nghìn chín trăm ba ba
Là năm Quý Dậu con gà ác thay
Kể dời phu mỏ Hòn Gai
Công ty than của chủ Tây sang làm
Chiêu phu mộ Khách, An Nam
Cuốc tầng khai mỏ tìm than ra vầy
Than ra ở các mỏ này
Hà Lầm, Hà Sú, mỏ rày Ngã Hai
Bán than cho các nước ngoài
Tàu bè ngoại quốc vãng lai mua dùng
Chủ nhì, chủ nhất, đốc công
Mỗi sở một sếp cai trong sở làm
Làm ra máy trục, máy sàng
Sở Tàu, Than Luyện, Sở Than chung là
Va-gông, than chở về ga
La-ga đặt ở Cốt Na cổng đồn
Để cho xe hỏa dắt dồn
Thật là tiện lợi gọn gàng vân vi
Ăng Lê, Nhật Bản, Hoa Kỳ
Hồng Kông, Thượng Hải đều thì sang mua
Cửa Ông là Cẩm Phả po
Cẩm Phả min, Cọc Sáu, cùng là Mông Dương
Ngoại giao các nước thông thương
Hòn Gai giàu vốn lại cường thịnh ra
Tây Bay coi sổ la voa
Bắc ngay đường sắt cho xe thông hành
Một đường đi thẳng Hà Lầm
Một đường Núi Béo, Cọc Năm đi về …
—o—
Em đây chính thực anh hùng
Em đi chắn lưới ở vùng Vạn Hoa
Chắn từ Cái Rồng mà ra
Chắn đến Xà Kẹp chắn qua Bãi Dài
Cái Bàn chắn từ Hòn Hai
Chắn sang Cây Khế, Cái Đài hai hôm
Vụng Đài thấp nước bồn chồn
Cửa Mô sóng vỗ đầu cồn lao xao
Rồi ra ta sẽ chèo vào
Lò Vôi chốn ấy ta vào chắn chơi
Sau thì ta sẽ nghỉ ngơi
Ta chèo vào phố đậu chơi mấy ngày
Chắn quanh cái khúc sông này
Chỗ nào thấp nước ta nay làm chuồng
Em đây ngỏ thực anh tường
Để anh biết thực mọi đường chắn đăng.
—o—
CỬA ÔNG
Em là con gái tỉnh Nam
Chạy tàu vượt biển ra làm Cửa Ông
Từ khi mới mở Cửa Ông
Đi làm thì ít, đi rông thì nhiều
Chị em cực nhục trăm điều
Trước làm một lượt đã trèo cầu thang
Đặt mình chưa ấm chỗ nằm
Đã lại còi tầm hú gọi ra đi
Dế kêu, suối chảy rầm rì
Bắt cô trói cột não nề ngân nga
Đoàn người hay quỷ hay ma
Tay mai, tay cuốc, sương sa mịt mù
Hai bên gió núi ù ù
Tưởng oan hồn của dân phu hiện về.
—o—
MINH CHÂU
Hôm nay đăng chắn ở Mang,
Đến mai nó chạy xuống làng Minh Châu
Nghĩ rằng nó chạy đi đâu
Ai ngờ nó chạy qua Châu thăm nhà
Tôi nghĩ đường đất cũng xa
Cho nên tôi mới vào ra thống nồng
Rủ nhau một lũ cũng đông
Hội đăng thon nồng thì nghĩ cũng vui.
VỤNG ĐĂNG
—o—
Thuyền đăng, thuyền lưới, thuyền câu
Biết thuyền ông ngoại đỗ đâu mà tìm
Thuyền đăng, thuyền lưới thuyền chài
Biết thuyền ông ngoại buông chài nơi nao
Nước lên cho ngập con sào
Cho thuyền ông ngoại chèo vào Vụng Đâng
—o—
CỬA MÔ
Lưới anh đánh ở Cửa Mô
Bằng gộc, bằng gồ, bằng hốc, bằng hang
—o—
CÁ BIỂN
Ví dù theo lái xuống tàu
Thì em mới biết cá gầu có gai
Con bơn, con nhệch là hai
Con còng, con ghẹ, nó tài đào hang
Kể rằng cá đuối bơi ngang
Cái đuôi có điện ra đàng làm cao
Lại tăm con cá đuối sao
Nước lên cả nước gặp ngay cá ngần
Biển sâu lại có chướng ngầm
Cá ăn nó lượn ba lần nó ra
Cá Ông thì ở bể xa
Lưỡng long chầu nguyệt có ngà đôi bên
Lần đầu xuống bến xuống thuyền
Sao mà em biết nhãn tiền cá Ông
Ví dù em có sang sông
Thì em mới biết cá Ông chầu đền
Kể từ mặt biển kể lên
Chim, thu, nhụ, đé, vược hên nhất đời
Cá he ngậm nước bao giờ
Mà em dám nói đổ ngờ cá he
Kể cả con cá mòi he
Xương dăm vẫn mặc cứ le cho vào
Kể từ con cá chuồn hoa
Nó nhảy một cái qua ba lần thuyền
Kể từ con cá đối đen
Bắt được đi bán lấy tiền ăn chơi
Dưới bể có cả đồi mồi
Có con lợn bể nó bơi cả ngày
Kể cả con cá mó tày
Vàng xanh cả vẩy cả vây cũng mừng
Kể cả con mực, con nhưng
Cứ cầm cho chặt lưới thừng không buông
Con mực nhuộm đục cả luồng
Đón đuôi thả lưới mà buông đến cùng
Cá mập bơi lội vẫy vùng
Khoanh tay vược lộn ở vùng bể Đông
Kể từ cá mú, cá song
Cá nhung, cá cúng, cá hồng Áng Gai
Cá sông kể cũng rất tài
Cá mè, cá chép, ở khe ngọn nguồn
Trở giời nó mới lượn lên
Ví dù em ở đồng trên gần nguồn
Thì em mới biết nguồn cơn
Thì em mới biết cá rô, trê đồng
Bây giờ em chưa có chồng
Làm gì em biết thuộc lòng cá chim?
—o—
Cọp dữ Mông Dương, nước độc Hà Tu
Ra đây bụng ỏng, mặt phù, chân sâu
CẨM PHẢ
—o—
Ai ra Cẩm Phả mà xem,
Rừng xanh ngăn ngắt, đất đen sì sì.
Đã là cái kiếp cu li
Có gì là đẹp, có gì là vui.
—o—
Đồn Cẩm Phả sơn hà bát ngát
Huyện Hoành Bồ đồi cát mênh mông
Ai ơi, đứng lại mà trông
Kìa khe nước độc, nọ ông hùm già
Việc gì mà rủ nhau ra
Làm ăn cực khổ nghĩ mà tủi thân
—o—
Đồn rằng Cẩm Phả vui thay
Bước ra đến mỏ trông ngay lên tầng
Xin được gánh nước đã mừng
Tôi xin ông sếp ông đừng ghẹo tôi
Ông sếp mới nói một lời:
Nếu không cho ghẹo thì thôi, trở về!
—o—
Cây mắm cò quăm, cây sú cò queo
Thắt lưng cho chặt mà theo anh về
Ăn cơm với cá mòi he,
Lấy chồng Cẩm Phả, đun xe suốt đời.
—o—
Gái Hòn Gai, trai Cẩm Phả
SÔNG RỪNG
Con ơi nhớ lấy lời cha
Gió to, sóng cả chớ qua sông Rừng
Đánh giặc thì đánh giữa sông
Đừng đánh chỗ cạn mắc chông mà chìm