PHẬT TỔ MAN NƯƠNG

Loading

PHẬT TỔ MAN NƯƠNG
Bia đá ở chùa Tổ ghi lại sự tích Man Nương
Xưa, sư Khâu Đà La người nước Thiên Trúc hành đạo Bà La Môn. Từng ở trên núi cao, không cần tu viện lớn mà chu du khắp bốn biển. Bấy giờ, vào thời Hán đã đến thành Luy Lâu nước ta.
Bên cạnh thành Luy Lâu có ông bà Tu Định người làng Mãn Xá rất kính mộ phép thuật của nhà sư. Khâu Đà La thường ngồi tĩnh tọa không ăn uống. Trong lòng Tu Định biết là Phật xuất thế nên rất kính cẩn mến mộ. Tu Định có một người con gái xinh đẹp nết na, đã cho theo thày học đạo. Nhà sư nói với Tu Định rằng: “Ông nhập Phật Pháp của ta là sớm có duyên, Man Nương có đạo ngày kia sẽ thành Đại pháp khí” và còn giúp Tu Định phép thuật lấy nước cứu hạn giúp dân, rồi nói lời từ biệt vào trong núi tu hành.
Một hôm, Man Nương đến bỗng có rồng mây cuốn quanh mình rồi cảm động mà mang thai. Man Nương sợ hãi nói rõ sự việc với cha mẹ. Ông bà Tu Định kinh ngạc vào núi để nói rõ sự tình với Đà La. Nhà sư bảo rằng: “Man Nương có thai là do nhân thiên hợp khí”.
Man Nương có mang được 14 tháng, đến ngày 8 tháng 4 sinh được một bé gái, trong phòng hương thơm khác lạ lan tỏa đầy nhà. Man Nương liền bế con vào nơi núi non tìm thày, trời âm u không thấy rõ ràng, chỉ nghe thấy tiếng tụng niệm, bèn quay lại nói với cây dung thụ rằng: “Nếu có thiêng hãy ôm lấy hài nhi này”. Cây bèn mở thân, bèn đặt đứa bé vào đó, cây khép lại…
Sau đó, trời mưa to gió lớn giật đổ cây dung thụ trôi đến cửa bến thành Luy Lâu, trong cây như có tiếng nhạc, ánh sáng chiếu rọi, mùi hương thơm phức, mọi người đều thấy. Sĩ Vương trong thành thấy lạ, bèn lệnh cho quan quân xem xét, quả nhiên như vậy, đến đêm mộng thấy một vị Thần nói rằng: “Cây này là thần mây, mưa, sấm, chớp”. Vương bèn ban bố với quần thần trong triều tạc tượng Phật để thờ và lệnh cho thợ cắt cây làm bốn đoạn tạc thành bốn tượng. Khi tượng tạc xong đã lệnh cho nhân dân sáng lập các chùa: Thiền Định, Thành Đạo, Phi Tướng, Trí Quả để thờ phụng. Lúc khánh thành khi còn chưa đón vào chùa thì gặp đại hạn. Vương bèn cầu khấn, bỗng nhiên mưa to. Vì thế nhớ mộng trước bèn đặt tên là: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện.
Đến khi rước vào chùa, ba tượng xe chở rất nhẹ, còn tượng Pháp Vân nặng không thể được. Vương cho thợ tạc tượng đến hỏi, thợ tâu trong cây có hòn đá đã vứt xuống sông, lại lệnh cho ngư dân đi mò tìm vì biết cây đó chứa con của Man Nương và tạc thành tượng Thạch Quang để thờ. Vương lại lệnh cho nhân dân tạc tượng Tam tổ sáng lập chùa Phúc Nghiêm.
Thời Tam quốc, Đào Hoành làm thái thú Giao Châu nghe thấy tiếng Tứ Pháp linh thiêng, đã lệnh cho xây đàn lớn, không được xâm phạm, hương hoả cung kính; mỗi khi gặp dịch bệnh thì phụng quốc mệnh cầu đảo, tai ương lập tức qua khỏi.
Thời Tấn, Đào Khản làm thái thú Giao Châu, muốn rước tượng về nước, lấy hàng ngàn tráng sĩ hợp sức di chuyển cũng không được.
Thời Tùy, sai Lưu Phương đến châu của ta tìm đến Tam tổ chùa Tứ Pháp yết bái để thoả sự mong mỏi.
Đường Xương khi rời qua châu của ta đã đích thân đến chùa Phúc Nghiêm, lệnh cho chép lại sự tích để dâng lên vua Đường.
Nước ta đến mùa thu năm đầu thời Lý Nhân Tông, mưa mãi không tạnh, ngài đã đích thân đến cầu mưa tạnh. Năm Thái Ninh thứ 3 gặp đại hạn, vua lệnh cho rước tượng Phật vào Thủy Tinh điện, thân cung pháp phục dâng hương bái lạy, đêm ấy trời đã đổ mưa. Quân Tống đến cướp nước, tướng Cao Quỳ định áp sát lấy trộm mang về. Khi đến cánh đồng Vũ Bình đã bị quân ta truy đuổi đánh cho tan tác, mọi người trong nước đều nghĩ Phật đã bị mất. Mùa đông năm ấy thả lửa đốt đồng, chỉ có đức Phật ở đó vẫn xanh tươi. Vua nghe thấy thế liền lệnh cho đón về chùa.
Thời vua Lý Anh Tông gặp đại hạn, liền đón về chùa Báo Thiên, nhà vua và Thái hậu đích thân hành lễ cầu mưa, khi xa giá trở về trời đã đổ mưa lớn.
Đến thời vua Lê chúa Trịnh, hàng năm sai quan triều đình đến cúng tế để giữ mạch đất nước lâu dài. Năm Canh Thân lại đại giá thân chinh đặc mệnh cho Thuyên nghĩa hầu Lê Kim Hội đến lấy trống làm hiệu, khi đại định lại gia ban áo gấm mũ trụ. Tiếp nối về sau, phàm việc cầu tạnh, cầu mưa, trước tiên đến đón Tứ Pháp về bái yết chùa Phúc Nghiêm và chùa Diên Ứng cầu đảo ba ngày. Sau mới đón Tam tổ hội cùng tế cáo, đặt làm lệ mãi như vậy. Nước Việt ta có Phật khởi phát ở nơi này, sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng việc đó không thể mai một.
Truyền thuyết Man Nương
—o—
CHÙA TỨ PHÁP
CÁC CHÙA THỜ TỨ PHÁP Ở THUẬN THÀNH – BẮC NINH
TÍN NGƯỠNG THỜ TỨ PHÁP CỦA NGƯỜI VIỆT
FOCUS: Tín ngưỡng thờ Tứ pháp độc đáo của người Việt
—o—
CHÙA TỔ
Truyền rằng, chùa được xây trên nền nhà cũ của ông bà Tu Định là thân phụ và thân mẫu của Man Nương. Khi ông bà Tu Định hiển Thánh thì ngôi nhà trở thành chùa. Chùa Tổ vốn được khởi dựng từ lâu đời và được nhiều triều đại trùng tu, đến nay chỉ còn tòa Tam Bảo thượng là công trình kiến trúc của thời Nguyễn còn bảo lưu khá nguyên vẹn.
Trung tâm điện phật là nơi thờ Phật mẫu Man Nương. Tượng Phật mẫu Man Nương được tạo tác trong tư thế tọa thiền trên tòa sen, cao gần 1,70m, được tạo giống với các tượng Tứ Pháp, khuôn mặt từ bi thánh thiện, toàn thân phủ một lớp sơn mầu mận chín đầy vẻ huyền bí linh thiêng. Phía trên cao hơn là tượng ông bà Tu Định là thân phụ và thân mẫu của Man Nương, toàn thân sơn mầu nâu sẫm, áo cà sa khoác ngoài trùm kín đùi. Góc bên phải của Thượng điện tượng sư tổ Khâu Đà La, đầu trọc để trần, khuôn mặt từ bi, ngồi thiền trên tòa sen, áo cà sa khoác ngoài.
Hiện chùa Tổ còn bảo lưu được nhiều tài liệu cổ vật quý giá như: tượng thờ, bia đá, sắc phong, hoành phi, câu đối… Trong đó, sắc phong triều vua Cảnh Hưng thứ 14 (1786) phong cho sư tổ Khâu Đà La và một sắc phong triều vua Khải Định thứ 8 (1923) phong cho Phật Mẫu Man Nương. Các tài liệu cổ vật quý giá đó đã minh chứng sự có mặt của hai con người Khâu Đà La và Man Nương là có thật, và chính họ đã tạo nên Sơn môn Dâu cùng hệ thống Tứ Pháp đầu Công nguyên. Đặc biệt chùa còn bảo lưu được một tấm bia đá còn khá nguyên vẹn, có kích thước (cao 172,5cm, rộng 98cm, dày 15cm) trán bia chạm nổi hình lưỡng long chầu nguyệt, diềm chạm hoa lá, vân mây cách điệu, tên bia “Phúc Nghiêm tự sự tích bi” được dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 12, đến năm Tự Đức 26 (1873) được khắc lại, nội dung cho biết sự tích của Phật mẫu Man Nương và hệ thống Tứ Pháp
Truyền tích phật mẫu man Nương, chùa tổ, mãn xá, hà mãn, thuận thành, Bắc ninh.
—o—
CHÙA DÂU
Chùa Dâu – thờ Pháp Vân
Chùa Dâu Bắc Ninh | Chùa Cổ Nhất Việt Nam | Chùa Dâu 2024 | Văn Hóa Tâm Linh Việt
Chùa Dâu – cội nguồn của Phật giáo Việt Nam| Danh lam thánh tich
Tìm hiểu về chùa Dâu-Ngôi chùa cổ ở Thuận Thành-Bắc Ninh
Chùa Dâu Bắc Ninh – Ngôi chùa cổ linh thiêng nhất Việt Nam triều đại nào cũng tu tạo
SAU 27 NĂM KHÔI PHỤC LỄ HỘI RƯỚC PHẬT TỨ PHÁP TỔNG DÂU -THUẬN THÀNH – BẮC NINH NGÀY 5-5-2025
Kỳ lạ số phận 2 bức tượng Cừu đá 2000 năm ở Bắc Ninh
—o—
CHÙA ĐẬU
Chùa Đậu – thờ Pháp Vũ
Địa chỉ : trước kia, chùa cổ (đã bị phá huỷ) nằm ở xã Đông Cốc, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh và nay
– Khu phố Đông Cốc, phường Hà Mãn
– Khu phố Đại Tự, phường Thanh Khương, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
Theo truyền thuyết, khi tạc bốn pho tượng Phật Pháp từ cây Dung thụ thiêng trôi trên sông Dâu, tạc đến pho thứ hai thì trời mưa, nên pho tượng đó đặt tên là Pháp Vũ (Vị Phật chủ quản về mưa). Pho Pháp Vũ được rước về chùa Đậu Thành Đạo thờ từ đó. Pho tượng nổi tiếng linh thiêng khắp xứ Giao Châu, tiếng đồn sang cả nhà Tấn, nhà Đường bên Trung Quốc.
Chùa Đậu có tên chữ là Thành Đạo tự, tương truyền được xây dựng từ thế kỷ II dưới thời Thái thú Sĩ Nhiếp tại thành Luy Lâu, Giao Châu. Chùa thờ Phật và Pháp Vũ dân gian gọi là Bà Đậu. Đây là chùa thuộc hệ thống các chùa Tứ pháp vùng Dâu xưa, gắn liền với truyền thuyết về Phật Mẫu Man Nương.
Chùa Thành Đạo nằm trên địa phận của làng Đông Cốc chỗ giáp ranh với làng Đại Tự. Chùa trở thành nơi hành lễ chung của người dân hai làng. Họ cùng chung tay chung lòng coi sóc ngôi chùa, đến mùa hội Dâu hằng năm họ cùng phân công đưa rước Bà Đậu, tham gia các hội tham gia các hội thi.
Năm 1948, chùa Thành Đạo bị quân Pháp đến phá lấy đất làm đồn bốt, vứt tất cả tượng khí xuống ao. Ông lý trưởng tên Bảo của làng Đại Tự lúc ấy đã đề nghị người dân tập trung lại, kéo đến xin vị quan Tây cho rước Bà Đậu về thờ tạm ở chùa Dâu.
Năm 1951, quân đội nhân dân Việt Nam tấn công, phá tan bốt của quân Pháp, ngôi chùa cũng bị phá hủy hoàn toàn. Hòa bình lập lại, khu đất chùa Đậu cũ được dùng xây kho lương thực hợp tác xã.
Năm 1960, để đảm bảo cơ chế sản xuất nông nghiệp kiểu hợp tác xã, Nhà nước cắt gần hai chục mẫu ruộng của thôn Đông Cốc giao cho Cục dự trữ quốc gia xây kho lương thực. Năm 1968, sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, cả khu đất chùa Đậu cũ, giờ thuộc về thôn Đại Tự, xã Thanh Khương.
Năm 1997, người dân thôn Đông Cốc xây lại chùa Thành Đạo bên cạnh đình Đông Cốc, tuy nhiên khu đất này không phải là nền chùa ngày xưa. Cùng năm đó người dân thôn Đại Tự cũng xây dựng lại chùa Thành Đạo trên nền chùa xưa để thờ Bà Đậu.
Tượng Pháp Vũ – di vật cuối cùng còn lại của chùa Đậu cổ, hiện đặt tại chùa Dâu
Hội Dâu diễn ra trong 3 ngày, là lễ hội chung của tổng Dâu gồm 12 làng khu vực Luy Lâu đang thờ hệ thống “Tứ Pháp”. Trong Hội Dâu có nghi lễ đặc sắc và quan trọng nhất là rước tượng bốn bà đến chùa Tổ ở làng Mãn Xá để “bái yết” Phật mẫu Man Nương. Từ những năm 1960, hai làng Đông Cốc và Đại Tự vẫn cùng tham gia hội rước Bà Đậu trong lễ hội.
Từ khi hai làng Đông Cốc và làng Đại Tự cùng xây chùa Thành Đạo thờ Pháp Vũ và cùng muốn được rước tượng Phật Pháp Vũ về thờ thì đã xảy ra tranh chấp về việc sở hữu tượng. Năm 1997 sau khi xây lại chùa, làng Đông Cốc đã được Sư trụ trì chùa Dâu và Hội Tổng Dâu (dân làng ba xã có Hội Tổng: Xã Thanh Khương, xã Hà Mãn, xã Trí Quả) đồng ý cho rước tượng Pháp Vũ về thờ. Tuy nhiên, khi chùa Dâu làm hồ sơ di tích vào những năm 1960, người ta kê khai tượng Bà Đậu vào 101 pho tượng là tài sản riêng của chùa Dâu và chùa Dâu đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa công nhận là di tích toàn miền Bắc (tương đương cấp quốc gia ngày nay) theo Quyết định Số: 313-VH/VP (ngày 28 tháng 04 năm 1962). Vì tượng là tài sản của di tích đã xếp hạng nên phải được Bộ Văn hóa cho phép mới được chuyển chủ sở hữu. Tuy nhiên sau khi thôn Đông Cốc gửi đơn thì từ đó vẫn chưa được chấp thuận để rước về nên tượng Pháp Vũ đến nay vẫn ở lại chùa Dâu.
Ngày 22 tháng 4 năm 2009, Ủy ban nhân dân huyện Thuận Thành đã phối hợp với Cục Di sản (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) tổ chức buổi tọa đàm về chùa Đậu (tức Thành Đạo Tự). Cuộc tọa đàm đã nghe ý kiến trao đổi của giáo sư tiến sĩ Trần Lâm Biền, tiến sĩ Nguyễn Hữu Toàn – Cục phó Cục Di sản đều cho ý kiến rằng: “Phật Pháp Vũ phải được thờ tại chùa Đậu theo đúng Luật Di sản…”.
Sở dĩ chưa có sự quyết định của Cơ quan quản lý văn hóa là do việc tranh chấp đến nay đã có ba bên với các lập luận của mỗi bên như sau:
– Chùa Đậu thôn Đông Cốc dù không xây trên đất của chùa Đậu ngày trước nhưng còn lưu giữ ba sắc phong thời Nguyễn[5]:
– – – Sắc phong cho Đức Pháp Vũ năm Tự Đức thứ 33 (1880), chung với Thành Hoàng làng Đông Cốc.
– – – Sắc Phong cho Đức Pháp Vũ năm Đồng Khánh thứ 2 (1887) chung với Thành Hoàng làng Đông Cốc.
– – – Sắc Phong cho Đức Pháp Vũ năm Duy Tân thứ 3 (1909) chung với Thành Hoàng làng Đông Cốc.
– Chùa Đậu thôn Đại Tự xây dựng trên chính mảnh đất đặt chùa Đậu ngày trước nên muốn có quyền thờ tượng vì đất thuộc ranh giới của thôn Đại Tự
– Chùa Dâu là chủ sở hữu hiện tại của tượng với hồ sơ di tích và quyết định của Bộ Văn hóa, đã giữ tượng từ năm 1948 đến nay
Hơn nữa, Ủy ban nhân dân huyện Thuận Thành (nay là thị xã Thuận Thành) kết luận rằng chùa Đậu thôn Đông Cốc và chùa Đậu thôn Đại Tự đều là công trình xây dựng trái phép. Chùa Đậu thôn Đông Cốc lại là công trình xây dựng xâm phạm vào khu vực bảo vệ của di tích lịch sử xếp hạng đình Đông Cốc nên không đồng ý cho chuyển tượng về một công trình xây dựng không có quyết định cấp đất, không có phê duyệt kiến trúc, không được cấp phép xây dựng. Chính quyền huyện Thuận Thành đề nghị xã Hà Mãn và xã Thanh Khương (nay là phường Hà Mãn và phường Thanh Khương) làm thủ tục khôi phục chùa Thành Đạo và thành lập Ban quản lý di tích chùa Thành Đạo thì mới đồng ý cho chuyển tượng Pháp Vũ về.
Sự việc tranh chấp đã diễn ra hơn 20 năm nay. Hội Dâu năm 1998 có tin đồn là người làng Đông Cốc định bí mật cướp tượng Bà Đậu trong lễ rước nên nghi lễ rước tượng trong hội Dâu đã bị hủy bỏ từ đó. Sự mâu thuẫn, tranh chấp cứ âm ỉ khiến đám rước trong hội Dâu gần như năm nào cũng xảy ra đánh nhau giữa người của hai làng Đông Cốc và Đại Tự.
Cả hai làng cũng nhiều lần đề đạt với chùa Dâu và cơ quan chức năng xin chuyển Bà Đậu về chùa làng mình, nhưng đều không đạt kết quả. Sự việc càng đi vào bế tắc khi chùa Dâu được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt và bộ tượng được công nhận là Bảo vật quốc gia.
—o—
CHÙA DÀN
Chùa Dàn – thờ Pháp Điện
Địa chỉ : khu phố Phương Quan, phường Trí Quả, thị xã Thuận Thành, Bắc Ninh
Chùa Dàn (tên chữ là Trí Quả tự) còn gọi là Chùa Dàn Phương Quan hay Chùa Dàn Câu là ngôi chùa thuộc hệ thống Tứ pháp, tương truyền được dựng từ thế kỷ thứ 2. Chùa nằm ở khu phố Phương Quan, phường Trí Quả, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Chùa Dàn Câu là nơi thờ chính của Pháp Điện hay còn gọi “Đại Thánh Pháp Điện Phật ” đứng thứ tư trong Tứ Pháp, chủ quản về Chớp, gắn liền với truyện Phật Mẫu Man Nương. Xưa Sĩ Nhiếp nhờ Man Nương vớt được cây Dâu trên sông trước của thành Luy Lâu, tạc thành 4 pho tượng Phật, tạc đến pho thứ tư thì trời có chớp liền đặt tên Pháp Điện, cho dựng chùa Trí Quả để thờ phụng, tên nôm của làng là Dàn nên Pháp Điện cũng được gọi là Bà Dàn. Cùng với Bà Dâu, Bà Đậu, Bà Tướng, nhân dân quan niệm Tứ pháp là bốn chị em, trong đó Bà Dâu là chị cả, Bà Đậu là chị hai, Bà Tướng là chị thứ ba và em út là Bà Dàn.
Tượng Pháp Điện còn lại đến nay có niên đại khoảng thế kỷ 18, được công nhận là bảo vật quốc gia số 10, đợt 6 (năm 2017) cùng với ba pho tượng Tứ pháp còn lại. Tượng cao 1,7m, tọa thiền trên tòa sen mặt hiền từ phúc hậu, gò má cao, sơn màu đỏ tươi, mắt sáng mày cong, miệng mỉm cười tinh nghịch, bàn tay phải giơ lên, tay trái để trên đùi, trong lòng bàn tay có hạt minh châu. Bà Dàn là em út nên được tạc gương mặt trẻ và tươi vui nhất trong các tượng Tứ Pháp.
Trong lễ rước tượng của Hội Dâu, kiệu của Bà Dàn phải đi cuối, và do Bà Dàn tinh nghịch, nên bao giờ cũng phải chờ kiệu các chị đi một đoạn xa rồi mới đi theo, do trên đường bà Dàn sẽ cho kiệu chạy lung tung, rẽ phải rẽ trái, rồi chạy rất nhanh. Kiệu rước bà Dàn cũng phải đi kèm mục “đánh gậy” để dẹp lối cho các đoàn rước và lấy đất mở hội. Ba mươi hai thanh niên làng Dàn khoẻ mạnh, được phân công đi thành đoàn, mỗi người mang theo một cây gậy tre (gậy tre cuốn giấy đỏ bên ngoài thì gọi là “hồng côn”; gậy tre “bánh tẻ” đem xát muối, phơi nắng cho trắng thì gọi là “bạch trượng”), vừa đi vừa múa theo một vũ điệu nhanh, mạnh để mở lối.
Đình Văn Quan thờ thần Thổ Kỳ, một vị thần đã có công âm phù 2 vị nữ tướng của Hai Bà Trưng là Ả Tắc và Ả Dị.
Đình – Đền – Chùa – Hội làng Văn Quan – Trí Quả – Thuận Thành – Bắc Ninh
Khu phố Văn Quan, Trí Quả, Thuận Thành
—o—
CHÙA TƯỚNG
Chùa Tướng – thờ Pháp Lôi
Chùa Phi Tướng (tên chữ là Phi Tướng đại thiền tự) còn gọi là chùa Tướng nằm ở khu phố Khương Tự, phường Thanh Khương, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Trong Truyền thuyết Phật mẫu Man Nương thì cây dung cổ thụ linh thiêng bị mưa bão cuốn theo sông Dâu về Luy Lâu, dân chúng vớt lên tạc được 4 pho tượng Phật, tạc đến pho thứ 3 thì sấm nổ vang trời nên đặt tên cho tượng là Pháp Lôi. Tượng Pháp Lôi được rước về làng Tướng (làng Thanh Tương) dựng chùa Phi Tướng để cung phụng.
Tượng Phật Pháp Lôi được thờ ở thượng điện chùa. Pho tượng được công nhận là bảo vật quốc gia số 10, đợt 6 (năm 2017) cùng ba pho tượng còn lại trong bộ Tứ Pháp ở chùa Dâu và chùa Dàn. Tượng Phật tạc trong tư thế ngồi thiền trên toà sen trong khám gỗ lớn chạm rồng, sơn son thếp vàng, thân cao 1,45m, vai rộng 0,55m, đùi rộng 1,05m. Đài sen cao 0,25m với 3 lớp cánh to mập. Tượng có thân hình nữ tính, khuôn mặt đầy đặn, thánh thiện với mũi dọc dừa, lông mày lá liễu, đôi mắt nhìn xuống bao dung, miệng mỉm cười, tay phải giơ lên ngang ngực, ngón tay kết ấn, tay phải để ngửa trên đùi có hạt ngọc “minh châu”; toàn thân được sơn phủ một lớp sơn màu mận chín, biểu tượng của một bầu trời đủ mây mưa sấm chớp.
Vì tượng tạc hình nữ tính và theo truyền thuyết cây dung (lấy gỗ tạc tượng) chứa con gái Man Nương nên tượng Pháp Lôi được gọi là Bà Tướng, cùng với Bà Dâu (chùa Dâu), Bà Đậu (chùa Đậu), Bà Dàn (chùa Dàn). Lễ hội vùng Dâu (Hội Dâu) luôn phải có nghi lễ rước đủ tượng bốn Bà về chùa Dâu.
Chùa Phi Tướng còn gọi là chùa Tướng, liên quan đến tên làng, thờ bà Tướng, hay nữ tướng Biểu Phật Nương, hay còn gọi là Biểu Phật, là một nữ tướng thân cận của Hai Bà Trưng.
Tương truyền, Thanh Tương nằm ở ngay cửa Bắc thành Luy Lâu bên bờ sông Đuống xưa. Dưới thời đô hộ của nhà Hán, người làng đã có nghề ca hát phục vụ quan lại cai trị đóng ở trong thành. Khi nghĩa quân của Hai Bà Trưng kéo về đánh chiếm thành Luy Lâu, ca nương Biểu Phật Nương người Thanh Tương đã làm nội ứng mở cổng thành cho quân Hai Bà kéo vào công chiếm, phá thành. Biểu Phật Nương trở thành nữ tướng tuỳ tùng của Hai Bà. Sau khi khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại, dân Thanh Tương đã lập đền thờ tưởng nhớ nữ tướng Biểu Phật Nương và làng Thanh Tương còn được biết đến với tên gọi làng Tướng từ đó.
—o—
CHÙA KEO
Chùa Keo, có tên chữ là Báo Ân Trùng Nghiêm tự, nằm ở làng Chè, xã Kim Sơn, Gia Lâm, Hà Nội.
Chùa thờ bà Keo tức bà Pháp Vân là một trong tứ đại Phật Pháp thời cổ ở Việt Nam.
Tên Keo bắt nguồn từ nghĩa hai thôn Giao Tự và Giao Tất gắn bó với nhau như Keo Sơn.
Các chùa Tứ Pháp là chùa Tổ, chùa Dâu, chùa Đậu, chùa Dàn và chùa Tướng thuộc vùng Dâu còn chùa Keo thuộc vùng Keo, tạo nên liên vùng Dâu Keo.
—o—
CHÙA PHẬT TÍCH
—o—
CHÙA BÀ ĐANH
Chùa Bà Đanh – thờ Pháp Phong
Chùa Bà Đanh là một ngôi chùa nằm ở thôn Đanh, phường Ngọc Sơn, thị xã Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.
Chùa Bà Đanh và Núi Ngọc nằm về phía Đông Nam xã Ngọc Sơn. 3 mặt khu di tích này có dòng sông Đáy bao quanh. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khu vực chùa Bà Đanh nằm tách ra xa khu dân cư. Tại đây cây cối um tùm nên vắng người qua lại. Mỗi khi dân làng có việc phải lên chùa vào buổi tối lại phải đốt đuốc và gõ chiêng gõ trống để xua đuổi thú dữ. Chính vì vậy dân gian truyền tụng câu: “Vắng như chùa Bà Đanh”.
Vì sao Chùa Bà Đanh vắng bóng người?
Chia sẻ:
Scroll to Top