Bao phen quạ nói với diều
Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm
– Miếu ông Điều Bát
Lịch thay địa cuộc Trà Ôn
Miếu ông Điều bát lưu tồn đến nay
– Hòn Ông hòn Bà
Hòn Ông đứng trước hòn Bà
Chồng cao vợ thấp đôi đà xứng đôi
– Đảo Các bà, Các ông
– Cù lao ông Xá
Ngó vô Vũng Lấm, Sông Cầu
Cù lao Ông Xá đứng hầu một bên
ÔNG BÁT
Năm voi anh đúc năm chuông
Năm cô anh đóng năm giường bình phong
Còn một cô bé chửa chồng
Lại đây anh kén cho bằng lòng cô
Một là ông Cống, ông Đồ
Hai là ông Bát, ông Đô cũng vừa
Giả tên bà Nguyệt, ông Tơ
Sớm đi cầu Thước, tối mơ mộng hùng
Rồi ra, cửa lại treo cung
Để cho cô đẻ, cô bồng cô ru
Ru rằng: con bú, con nô
Con lẫy, con bò, con chững, con đi
Ngày sau con lớn kịp thì
Con học, con viết, con thi cùng người
—o—
ÔNG CAI
Đẻ đứa con trai
Chẳng biết nó giống ai
Cái mặt thì giống ông cai
Cái đầu ông xã, cái tai ông trùm
—o—
Ngó lên đám cấy ông cai
Cấy thưa ông ghét, cấy dày ông thương
—o—
Trèo lên cây khế mà rung
Khế rụng đùng đùng chẳng biết khế ai?
– Khế này khế của ông cai
Khế vừa ra trái, chị hai có chồng
—o—
Ngựa ai buộc ngõ ông Cai
Xoàn ai mà lại đeo tai bà Nghè
Ngựa ai buộc ngõ ông Nghè
Trâu ai lại buộc bụi tre ông thầy
—o—
Gái này là gái kén chồng
Kén từ tỉnh Bắc, tỉnh Đông, tỉnh Đoài
Kén từ mười tám ông cai
Mười lăm ông đội, mười hai ông đồn.
Kén từ con cháu nhà vua
Bước chân xuống chùa lễ Phật ăn chay
—o—
Ông cai ơi hỡi ông cai
Công tôi làm được đúng hai mươi ngày
Làm sao mà đến kì này
Công hai mươi ngày hụt mất hào tư
—o—
Miệng ông cai, vai đầy tớ
—o—
Miệng ông cai, vai tên lính—o—
Thẻ tôi lĩnh có hai đồng
Ông cai lĩnh hộ, trừ công năm hào
—o—
ÔNG CỐNG
Dạy đĩ vén xống
Dạy ông cống vào tràng
Dạy bà lang bốc thuốc
—o—
ÔNG ĐĂNG
Làng Vạc ăn cỗ ông nghè
Làng Vận, làng Chè kéo đá ông Đăng
—o—
ÔNG ĐỘI
Gái này là gái kén chồng
Kén từ tỉnh Bắc, tỉnh Đông, tỉnh Đoài
Kén từ mười tám ông cai
Mười lăm ông đội, mười hai ông đồn.
Kén từ con cháu nhà vua
Bước chân xuống chùa lễ Phật ăn chay
—o—
ÔNG ĐỒN
Gái này là gái kén chồng
Kén từ tỉnh Bắc, tỉnh Đông, tỉnh Đoài
Kén từ mười tám ông cai
Mười lăm ông đội, mười hai ông đồn.
Kén từ con cháu nhà vua
Bước chân xuống chùa lễ Phật ăn chay
—o—
ÔNG ĐỒ
Một giỏ ông đồ,
Một bồ ông cống,
Một đống ông nghè,
Một bè tiến sĩ,
Một bị trạng nguyên,
Một thuyền bảng nhãn
—o—
Năm voi anh đúc năm chuông
Năm cô anh đóng năm giường bình phong
Còn một cô bé chửa chồng
Lại đây anh kén cho bằng lòng cô
Một là ông Cống, ông Đồ
Hai là ông Bát, ông Đô cũng vừa
Giả tên bà Nguyệt, ông Tơ
Sớm đi cầu Thước, tối mơ mộng hùng
Rồi ra, cửa lại treo cung
Để cho cô đẻ, cô bồng cô ru
Ru rằng: con bú, con nô
Con lẫy, con bò, con chững, con đi
Ngày sau con lớn kịp thì
Con học, con viết, con thi cùng người
—o—
ÔNG ĐÔ
Chiều chiều mượn ngựa ông Đô
Mượn kiều chú lính đưa cô tui dìa
Dìa dầy chẳng lẽ dìa không?
Ngựa ô đi trước, ngựa hồng theo sau
Ngựa ô đi tới Quán Cau
Ngựa hồng lẽo đẽo theo sau chợ chiều
Chợ chiều nhiều khế ế chanh
Nhiều cô gái lứa nên anh chàng ràng
—o—
Chiều chiều mượn ngựa ông Đô
Mượn ba chú lính đưa cô tôi về
Đưa về chợ Thủ bán hũ bán ve
Bán bộ đồ chè bán cối đâm tiêu
—o—
Chiều chiều mượn ngựa ông Đô
Mượn kiều chú Xã đưa cô tôi về
Ngựa ô đi tới vườn cau
Ngựa hồng đủng đỉnh đi sau vườn dừa
—o—
Chiều chiều mượn ngựa ông Đô
Mượn ba chú lính đưa cô tôi về
Cô về thăm quán thăm quê
Thăm cha thăm mẹ, chớ hề thăm ai.
—o—o—o—
ÔNG ĐÙNG
Ông Đùng bà Đà,
Ông Đa bà Mít
—o—
Con sắt vật ngã ông Đùng
Đắp mười chiếc chiếu không cùng bàn tay
—o—
Trèo lên chót vót Hai Vai
Ra tay khoát gió khoác vai ông Đùng.
ÔNG GẤM
Anh có thương thì thương cho chắc
Có dục dặc thì dục dặc cho luôn
Chiều chiều ông gấm ổng đứng ở đằng truông
Ai mà phản bạn, ổng cõng luôn vô rừng
ÔNG GIĂNG
Ông giẳng ông giăng
Ông giằng búi tóc,
Ông khóc ông cười,
Mười ông một cỗ,
Đánh nhau lỗ đầu,
Đi cầu nhà huyện,
Đi kiện nhà quan,
Đi bàn nhà phủ,
Một lũ ông già,
Mười ba ông điếc,
Con hiệc hai chân,
Đưa giăng về giời.
ÔNG HUYỆN
Nực cười ông huyện Hà Đông
Xử vị lòng chồng hai bảy mười ba
Không nghe tan cửa, nát nhà
Nghe ra hai bảy mười ba cực lòng
—o—
Kể chuyện ông huyện về quê
Có hai hòn ngọc kéo lê dọc đàng
Bà huyện cứ tưởng hòn vàng
Đánh trống đánh phách cả làng ra khênh
—o—
Bà huyện chết thì khách đầy nhà
Ông huyện chết thì cỏ gà đầy sân.
—o—
Giàu ba mươi sáu phố phường
Chẳng bằng ông huyện ở làng Kiều Mai
—o—
Mấy ông quan huyện Thanh Trì
Khéo khôn: mỡ lấy, xương bì ông không
Lỗ lãi ông đắn sâu nông
Được lời ông lấy, lễ không thèm nhìn
Kiện cáo vài lạng làm tin
Của cái ông vét, ông tìm ở dân
Việc phạt ông bảo là ân
Ân quan mà xuống, manh áo dân chẳng còn
—o—
Ông quan ở huyện Thanh Trì
Miếng mỡ thì lấy, miếng bì thì chê
ÔNG MAI
Đánh ông mai cái trót
Ông nhảy tót lên ngọn trâm bầu
Ông xe đâu đó
Ông thấy nhân nghĩa nghèo ông không xe
ÔNG NGHÈ
Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng
—o—
Thợ rèn có đe
Ông nghè có bút
—o—
Làng ta mười tám ông nghè
Ông cưỡi ngựa tía, ông che tàn vàng
—o—
Em là con gái đồng trinh
Em đi bán rượu qua dinh ông nghè
Ông nghè cho lính ra ve
– Trăm lạy ông nghè, tôi đã có con!
– Có con thì mặc có con,
Thắt lưng cho giòn mà lấy chồng quan!
—o—
Làng Vạc ăn cỗ ông nghè
Làng Vận, làng Chè kéo đá ông Đăng
—o—
Chị giàu quần lĩnh hoa chanh
Chúng em khốn khó quấn manh lụa đào
Chị giàu chị đánh cá ao
Chúng em khốn khó đi chao cá mè
Chị giàu chị lấy ông nghè
Chúng em khốn khó trở về lấy vua
—o—
Một chữ anh cũng thi
Hai chữ anh cũng thi
May thời đậu trạng, dẫu rớt đi cũng ông nghè hồi
—o—
Chị giàu quần lĩnh hoa chanh
Chúng em khốn khó quấn manh lụa đào
Chị giàu chị đánh cá ao
Chúng em khốn khó đi chao cá mè
Chị giàu chị lấy ông nghè
Chúng em khốn khó trở về lấy vua
—o—
ÔNG PHỖNG
Lấy chồng ông cống, ông nghè
Lấy chồng ông phỗng cũng khoe lấy chồng!
—o—
ÔNG TIÊN
Ông tiển ông tiên
Ông có đồng tiền
Ông giắt mái tai
Ông cài lưng khố
Ông ra hàng phố
Ông mua miếng trầu
Ông nhai nhóp nhép
Ông mua con tép
Về nhà ăn cơm
Ông mua mớ rơm
Về ông để thổi
Ông mua cái chổi
Về ông quét nhà
Ông mua con gà
Về cho ăn thóc
Ông mua con cóc
Về thả gậm giường
Ông mua nén hương
Về nhà cúng cụ
ÔNG TRẠNG
BỘ ÔNG CAI – ÔNG XÃ – ÔNG TRÙM
Đẻ đứa con trai
Chẳng biết nó giống ai
Cái mặt thì giống ông cai
Cái đầu ông xã, cái tai ông trùm
BỘ ÔNG CỐNG – ÔNG ĐỒ – ÔNG BÁT – ÔNG ĐÔ
Năm voi anh đúc năm chuông
Năm cô anh đóng năm giường bình phong
Còn một cô bé chửa chồng
Lại đây anh kén cho bằng lòng cô
Một là ông Cống, ông Đồ
Hai là ông Bát, ông Đô cũng vừa
Giả tên bà Nguyệt, ông Tơ
Sớm đi cầu Thước, tối mơ mộng hùng
Rồi ra, cửa lại treo cung
Để cho cô đẻ, cô bồng cô ru
Ru rằng: con bú, con nô
Con lẫy, con bò, con chững, con đi
Ngày sau con lớn kịp thì
Con học, con viết, con thi cùng người
—o—
BỘ ÔNG CAI – ÔNG NGHÈ
Ngựa ai buộc ngõ ông Cai
Xoàn ai mà lại đeo tai bà Nghè
Ngựa ai buộc ngõ ông Nghè
Trâu ai lại buộc bụi tre ông thầy
—o—o—o—
BỘ ÔNG CAI – ÔNG ĐỘI – ÔNG ĐỒN
Gái này là gái kén chồng
Kén từ tỉnh Bắc, tỉnh Đông, tỉnh Đoài
Kén từ mười tám ông cai
Mười lăm ông đội, mười hai ông đồn.
Kén từ con cháu nhà vua
Bước chân xuống chùa lễ Phật ăn chay
BỘ ÔNG ĐỒ – ÔNG CỐNG – ÔNG NGHÈ
Một giỏ ông đồ,
Một bồ ông cống,
Một đống ông nghè,
Một bè tiến sĩ,
Một bị trạng nguyên,
Một thuyền bảng nhãn
BỘ ÔNG CỐNG – ÔNG NGHÈ
Ông Nghè và ông Cống, một đi đường tâm trí và một đi đường quản trị, thường đi cùng ngựa tía có dù che, bởi vì hai ông này không làm việc trong bóng nắng mà làm việc trong bóng tối (ông Cống) và bóng đèn (ông Nghè).