LUY LÂU : VÙNG ĐẤT & CON NGƯỜI

Loading

LUY LÂU THỦ PHỦ NƯỚC VIỆT
Luy Lâu là kinh đô nước Việt, tiếp sau các kinh đô
– Phong Châu thời vua Hùng
– Cổ Loa được vua Hùng Vương 18 xây dựng khi bị Thục Phán chiếm Phong Châu, và sau đó truyền cho An Dương Vương, vẫn là Thục Phán nhưng đặt hiệu mới là An Dương Vương và đặt đô ở Cổ Loa sau khi thề với vua Hùng sẽ bảo vệ triều đại Hùng Vương. Thực ra lúc truyền ngôi thì vừa Hùng 18 cũng đã biết thời đại Hùng Vương đã kết thúc và sứ mệnh của An Dương Vương là hoàn thành giai đoạn kết thúc này
– Long Hưng Điện thời Triệu Đà (di tích còn lại là đình làng Xuân Quan đền thờ Triệu Vũ Đế, có tên là Long Hưng Điện, nằm ở xã Xuân Quan, Văn Giang, Hưng Yên, sát với làng Bát Tràng Hà Nội, cạnh bờ sông Hồng). Thời kỳ Nam Việt độc lâp kết thúc khi tướng Lữ Gia của Nam Việt thua trận trước nhà Hán vào năm 110TCN.
– Luy Lâu là thủ phủ của Giao Chỉ của cả nhà Đông Hán và Tây Hán. Nhà Đông Hán cai trị nước ta, chia nước ta thành ba quận: Giao chỉ (Bắc Bộ ngày nay), Cửu Chân (Thanh, Nghệ, Tĩnh) và Nhật Nam (từ phía nam Hoành Sơn đến núi Đại Lãnh). Năm Giáp Ngọ (34 sau công nguyên) Tô Định được cử sang Nam Việt làm Thái Thú quận Giao chỉ, thủ phủ ở Luy Lâu. Thái thú trước Tô Định là Nguỵ Húc đã bị Hai Bà Trưng giết tại Luy Lâu .
THÀNH CỔ LUY LÂU
Thành cổ Luy Lâu được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, gắn liền với giai đoạn dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Đây từng là kinh đô của nước Âu Lạc do vua An Dương Vương xây dựng sau khi dời đô từ Cổ Loa. Theo truyền thuyết, thành được xây dựng bằng gậy tre thần, chỉ sau một đêm đã hoàn thành.
Thành cổ Luy Lâu được xây dựng với kiến trúc độc đáo, là một tòa thành đất hình chữ nhật với chiều dài 680 m, chiều rộng 520 m, chu vi hơn 2 km. Tường thành cao trung bình 8 m, dày 20 m, được bao bọc bởi hào nước rộng 20 m, sâu 3 m. Bên trong thành có nhiều khu vực được chia thành từng khu riêng biệt, phục vụ cho các chức năng khác nhau như: Cung điện vua, khu di tích, kho tàng, khu dân cư,…
Dấu vết của thành Luy Lâu hiện còn ở huyện Lũng Khê (Thanh Khương – Thuận Thành). Vị trí của đô thành này là điểm gặp gỡ của nhiều đường thủy bộ quan trọng. Có lẽ ngay từ năm 207 trước Công Nguyên, Luy lâu đã là trị sở của quận Giao Chỉ. Nhà Tây Hán và Đông Hán vẫn dùng Luy lâu làm trụ sở. Thời sĩ Nhiếp Luy Lâu hưng thịnh nhất. Từ đó trở đi, Luy Lâu, lúc hưng thịnh lúc suy tàn.
Thành Luy Lâu hình chữ nhật, nằm hơi chếch theo hướng đông bắc – tây nam, dài khoảng 300m, rộng hơn 100m, hiện còn một vài đoạn thành cao tới 4-5m, rộng 3-4m. Do thành cao lại có mặt rộng, nên có thể dựng tháp canh, người ngựa có thể đi lại dễ dàng, lính có thể ăn uống ngay trên mặt thành. Phía tây và nam thành Luy Lâu có sông Dâu làm ngoại hào, phía đông và bắc có đồng chiêm trũng, ruộng nước. Từ đầu Công Nguyên, Luy Lâu nổi tiếng sầm uất. Thương nhân nước ngoài đã đến đây buôn bán. Ngoài người Hán còn có người Tây Á, Ấn Độ, Khơ Me.
Những năm gần đây Viện khảo cổ học đã khai quật, cắt một vài đoạn thành và cho những hiểu biết mới rất lý thú. Nhiều người quan tâm đến việc nghiên cứu Luy Lâu (Đào Duy Anh, C.Madtolle) việc nghiên cứu và chỉ ra thật rõ vị trí thành Luy Lâu có tác dụng lớn đối với việc nghiên cứu khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
Luy Lâu – Kinh đô thứ hai sau Cổ Loa, nơi đầu tiên Phật Giáo từ Ấn Độ truyền bá sang Việt Nam |VTV2
Luy Lâu – Kinh đô thứ hai sau Cổ Loa, nơi đầu tiên Phật Giáo từ Ấn Độ truyền bá sang Việt Nam
Thành Luy Lâu – Kinh đô xứ Giao Chỉ từ 1800 năm trước.
Tung Tăng Khắp Miền
Dấu xưa thành cổ nghìn năm Luy Lâu | Thuận Thành Bắc Ninh
Người nghệ nhân tâm huyết phục dựng Gốm cổ Luy Lâu
Thành cổ Luy Lâu – thủ phủ đầu tiên của Giao Châu
Vùng đất Luy Lâu mấy nghìn năm tuổi
Thành Cổ Luy Lâu | Ly kỳ tượng bà chúa bằng đồng đen mất cắp sang TQ lại quay trở về
—o—o—o—
SÔNG DÂU
Sông Dâu là một dòng sông cổ, nay đã cạn nhiều, vết tích còn lại là những con ngòi hẹp, ao hồ đứt quãng, chỉ một vài khúc còn dòng chảy ví dụ
– các ao dài ở các làng Bút Tháp, làng Tư Thế
– đoạn sông chạy từ Dâu đến chợ Nôm
Vùng Dâu là vùng đồng bằng châu thổ ven bờ của sông Dâu, đặc biệt là Luy Lâu, thủ phủ của nước Việt và trung tâm Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam trong nhiều thế kỷ đầu Công Nguyên.Đây là vùng gốc của Tứ Pháp của Phật Tổ Man Nương.
Theo sách Cổ Châu Phật bản hạnh kể về sự tích Phật Tứ Pháp vùng Dâu thì vào đời Sĩ Nhiếp cai trị (185-225) có trận cuồng phong làm đổ cây dung thụ bên trong chứa con gái nàng Man Nương do sư thầy Khâu-đà-la đặt vào. Cây từ núi Mả Mang (núi Phật Tích ở huyện Tiên Du) theo sông Dâu về bến Vọng Giang Lâu thành Luy Lâu thì quẩn lại không trôi đi nữa. Sĩ Nhiếp thấy cây to sai quân kéo vào để làm nhà nhưng không kéo nổi. Khi nàng Man Nương đến chỉ cần tung dải yếm ra là kéo vào được. Đêm đó Sĩ Nhiếp nằm mơ được tiên ông báo cần xẻ gỗ làm tượng Phật thì sẽ cầu mưa được mưa và ngài đã làm theo. Đó là hệ thờ phật Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) đặt ở bốn chùa gần nhau là chùa Dâu, chùa Đậu, chùa Tướng, chùa Dàn.
Các địa danh & sự kiện liên quan đến sông Dâu
– Ngã 3 Dâu nay là ngã 3 sông Đuống sông Hồng
– Cầu Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh
– Chùa Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh
Sự kiện & lễ hội vùng Dâu
– Khởi nghĩa Hai Bà Trưng khởi đầu tại thành Luy Lâu
– Sự tích Phật Tổ Man Nương
– Sự tích Trương Chi
– Lễ hội Dâu
Sông Dâu vốn là một sông lớn nối sông Hồng, sông Cầu, sông Đuống, sông Thái Bình, sông Tiêu Tương (đã mất) và ra biển Đông
– nối từ sông Cầu sang sông Hồng
– nối sông Đuống : sông Dâu gặp sông Đuống ở ngã 3 Dâu
– nối với sông Tiêu Tương ở Đình Bảng (Sông Tiêu Tương nối sông Cầu và sông Hồng). Sông Tiêu Tương cùng với dòng Tào Khê, Suối Sẻ (bắt nguồn từ núi Phật Tích chảy vào sông Dâu) đã bị vùi lấp.
– nối vơi Phật Tích, Luy Lâu : Sông Dâu chạy từ Đình Bảng xuống Phật Tích, về vùng Dâu (Luy Lâu) tạo thành hào phía Tây thành Luy Lâu,
– Nối với sông Thái Bình : Từ Luy Lâu, cụ thể là qua chùa Dâu, sông chảy về phía Cầu Gáy của xã Nguyệt Đức, Thuận Thành, đổ xuống Hà Mãn, Cửu Yên (Ngũ Thái), rồi đổ vào sông Cẩm Giàng và ra sông Thái Bình.
– Ra biển Đông : Sau khi gặp sông Thái Bình, sông Dâu đổ ra biển Đông.
Dòng chảy sông Dâu ở phía nam sông Đuống thì còn rõ dấu vết.
– Bắt đầu là vị trí xóm Sông của thôn Đình Tổ (xã Đình Tổ), nơi có đoạn đê vào mùa nước to vẫn xảy ra hiện tượng rò rỉ nước kiểu mạch ngầm mạch sủi do đê đắp trên nền lòng sông Dâu cổ không đủ độ bịt kín các khe cứng đáy sông.
– Tiếp theo là dãy ao hồ dài nối nhau của thôn Đình Tổ, nơi thái sư Lê Văn Thịnh (thời Lý) từ nơi đày Thao Giang trên đường về quê đã ngã xuống tắt thở khi chỉ còn cách quê nhà hơn mười cây số.
– Tiếp đó là khu đồng trũng và dãy ao hồ thôn Trà Lâm và thôn Tư Thế (phường Trí Quả), nơi dấu vết phù sa còn rõ như ở ven dòng sông đang chảy năm xưa.
– Bãi Định (Khu phố Công Hà, phường Hà Mãn) gần cầu Dâu chín nhịp là nơi làm gốm nay thành chợ. Câu ca dao “Công Hà trồng bí trồng bầu” thêm phần khẳng định dòng chảy bồi đắp phù sa cho nơi đây.
Đến thế kỷ 19, con sông Dâu bị cạn, sông Tiêu Tương và sông Dâu biến thành hai con sông chết. Khi đó, sông Dâu và sông Tiêu Tương chảy theo hướng Bắc – Nam, hướng có độ dốc lớn, thường gây ra lũ do lượng nước dồn về nhanh. Cả vùng Dâu – Keo, Đình Bảng ngày xưa đều thường xuyên có lụt. Người dân Kinh Bắc mới khơi con sông Thiên Đức (sông Đuống) theo hướng Tây – Đông để chia nước sông Hồng. Khi đó, con sông Thiên Đức cũng chỉ là một con sông nhỏ, người dân bắc cầu tre đi qua được. Đình làng Đông Hồ nguyên là phía Bắc sông, khi khơi sông mới di về bờ Nam. Khi sông Dâu và sông Tiêu Tương bị lấp, cạn dần đi, sông Thiên Đức lớn lên cắt Bắc Ninh ra làm hai phần: nam phần Bắc Ninh (gồm bốn huyện, thị xã: Gia Lâm, Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài); bắc phần Bắc Ninh (gồm ba huyện, thị xã: Quế Võ, Tiên Du và Yên Phong). Sự lớn rộng của con sông Thiên Đức cùng với sự biến mất của con sông Dâu và sông Tiêu Tương là thời điểm đánh dấu sự chấm dứt vai trò trung tâm của Phật giáo Luy Lâu.
Năm 1958, khi Nhà nước xây dựng công trình thủy lợi lớn mang tên Đại thủy nông Bắc Hưng Hải thì dòng chảy sông Dâu lại được khôi phục một phần, lấy nguồn nước từ kênh dẫn và cống điều tiết từ sông Đuống ở vị trí không phải dòng sông cổ. Nhưng đoạn từ bến Vọng Giang Lâu về Cầu Gáy thì theo dòng chảy cũ và có đào thêm đoạn chảy về phía huyện Văn Lâm, qua thôn Ngọc Tỉnh (xã Song Liễu), nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm và nói chuyện với dân công làm mương năm 1958.
Vai trò với Luy Lâu
Sông Dâu chảy nối liền sông Đuống, tiến sâu vào phường Thanh Khương uốn khúc, lượn lờ tạo nên một vùng tụ thủy. Đây chính là nơi âm dương giao hòa, đất trời gặp gỡ tạo nên một vùng đất thiêng. Bao quanh chùa là 12 làng, các nhà địa lý phong thủy nổi danh cho đây là thế đất lớn. Chính vì lẽ đó mà Sỹ Nhiếp đã xây kinh đô Luy Lâu và chính nơi đất lành này mọc lên một ngôi chùa về sau trở thành trung tâm Phật giáo của người Giao Chỉ.
Đô thị Luy Lâu nằm giữa khu vực giao nhau giữa Sông Dâu và Sông Đuống, giữa trung tâm đồng bằng châu thổ Bắc Bộ, trong đó Sông Dâu giữ vai trò trục không gian kiến trúc chính. Các công trình của đô thị chủ yếu dựng đặt, xây cất bên bờ Sông Dâu (thành lũy bên một bờ sông). Các công trình kiến trúc, tôn giáo (đền đài, chùa tháp…) được xây cất trong thành, ngoài phố xá, làng mạc dọc bờ Đông Sông Dâu là chủ yếu, trong đó Chùa Dâu (Đền Bà Dâu) giữ vai trò trung tâm tôn giáo của đô thị Luy Lâu, được xây dựng quy mô bề thế.
Sông Dâu giữ vai trò thông thương đường thủy đặc biệt quan trọng nối trung tâm Luy Lâu với các vùng miền xung quanh, với các nước trong khu vực. Dòng chảy này là đường thủy nối Luy Lâu với Phật Tích và có vai trò quan trọng trong việc hình thành hai trung tâm Phật giáo Phật Tích và Luy Lâu. Như vậy, vào đầu Công nguyên, vùng Dâu tức Luy Lâu, một vị trí trung tâm Đồng bằng châu thổ sông Hồng, với nhiều lợi thế, đã trở thành trị sở của quận Giao Chỉ (sau là trị sở của quận Giao Châu), đồng thời là một đô thị sầm uất, là một trung tâm thương mại lớn của quận Giao Chỉ.
Theo các nguồn sử liệu, các nước phương Tây và phương Nam muốn buôn bán, giao thiệp với Trung Quốc đều phải theo con đường Giao Chỉ. Từ trước Công Nguyên và nhất là từ thế kỷ II-III trở đi, ngày càng có nhiều thương nhân nước ngoài đến buôn bán ở Giao Châu và thuyền buôn của họ thường xuyên có mặt ở Luy Lâu. Những chứng tích vật chất và các nguồn tài liệu ở Luy Lâu đã khẳng định Luy Lâu thực sự là trung tâm thương mại lớn – một đô thị cảng mang tính quốc tế của nước ta thời Bắc thuộc.
Phật Tích với vị trí và cảnh quan một vùng sơn lâm, ở trung tâm châu thổ Bắc Bộ, với núi non, đồi rừng thâm u, tĩnh mịch, có am đá, cây xanh bao phủ. Đó là vị trí cảnh quan thích hợp cho các giáo sĩ đến lập am, luyện đạo, tu thiền. Vì vậy, vào đầu Công nguyên, các giáo sĩ Ấn Độ, mà người tiêu biểu là sư Khâu Đà La đã tới quận Giao Chỉ, qua trung tâm Luy lâu, rồi về Phật Tích lập am, luyện đạo tu Thiền đúng như tài liệu Cổ Châu Phật bản hạnh đã chép. Các giáo sĩ đã theo các thuyền buôn qua đường biển vào trung tâm Luy Lâu, rồi ngược dòng sông Dâu tới Phật Tích và dừng ở đó để lập am, dựng chùa, và tu luyện, sau mới trở lại truyền bá đạo Phật cho dân chúng tại Luy Lâu, lập nên sơn môn Dâu, một trung tâm Phật giáo lớn và cổ xưa nhất ở Việt Nam[8].
Ở Luy Lâu có tín ngưỡng thờ thần tự nhiên, mây mưa sấm chớp. Phật giáo Ấn Độ vào Việt Nam tìm cách hoà hợp với tín ngưỡng này, nên mới sinh ra truyền thuyết về Man Nương, là nguồn gốc để có hệ thống tín ngưỡng Tứ pháp cho đến tận bây giờ. Các nhà sư Trung Quốc muốn sang Ấn Độ nghiên cứu về Phật giáo Ấn Độ đều phải qua Giao Chỉ để học chữ Phạn; ngược lại, các nhà sư Ấn Độ muốn sang Trung Quốc cũng phải qua Giao Chỉ để học chữ Hán… Đó là những dấu ấn quan trọng cho thấy, Luy Lâu được hình thành và mang đậm những nét đặc trưng của Phật giáo Ấn Độ, tạo nên kết quả là Phật giáo Việt Nam sinh ra bởi sự hoà hợp của Phật giáo Ấn Độ với tín ngưỡng bản địa, không phải từ nguồn Phật giáo Trung Hoa thời Bắc thuộc.[6]
Ca dao
Sông Dâu được nhắc đến nhiều lần trong ca dao, dân ca quan họ:
Thuyền em ngược bến sông Dâu
Buôn chè mạn Thái còn lâu mới về
Lênh đênh ba bốn thuyền kề
Chiếc ra cửa bể, chiếc về sông Dâu
Lên đênh ba bể bốn bề
Chiếc xuôi Hà Nội, chiếc về sông Dâu
Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu
Mồng chín đâu đâu trở về hội Gióng
Râm râm hội Khám
U ám hội Dâu
Vỡ đầu hội Gióng
Hội Dâu đã tàn, hội Gióng đã tan
Ai còn hồng nhan thì về hội Bưởi
Sông Dâu
HUYỀN TÍCH DÒNG SÔNG CŨ TRÊN THÀNH XƯA LUY LÂU
Bí ẩn chiếc thuyền cổ song thân dưới lòng sông Dâu xưa
Các nhà khoa học đánh giá về thuyền cổ vừa phát hiện gần thành Luy Lâu, Bắc Ninh
Giải mã bí ẩn hai thuyền cổ ở Bắc Ninh, nhà khảo cổ kinh ngạc | VTC News
—o—o—o—
KHỞI NGHĨA HAI BÀ TRƯNG TẠI THÀNH CỔ LUY LÂU
Đầu Công nguyên, nước ta đã chịu ách đô hộ của nhà Đông Hán. Hai Bà Trưng đã đứng lên dựng cờ khởi nghĩa, mở đầu lịch sử chống giặc phương Bắc xâm lược Việt Nam, tại thành Luy Lâu-Thuận Thành.
Hai Bà Trưng Trắc, Trưng Nhị sinh ra trong một gia đình quý tộc địa phương, thuộc dòng dõi các vua Hùng. Cha là Trưng Định (Hùng Định) là một hiền sĩ, văn võ toàn tài, được cử làm quan lạc tướng đất Mê Linh. Khi ông Trưng Định về đất cổ lai (nay là làng Hạ Lôi, xã Mê Linh) ẩn thân dạy học đã đính ước với bà Trần Thị Đoan, con gái cụ Trần Minh (cũng là hậu duệ bên ngoại của vua Hùng, một gia đình quý tộc cao môn). Bà Đoan là người công dung, ngôn hạnh, đức độ, hiền hòa, thạo nông trang, giỏi chăn tằm dệt vải. Trong nghề lứa kén đầu, kén dầy thường gọi là kén chắc (Trắc), lứa kén sau mỏng hơn gọi là kén nhị (Nhì). Khi có con, ông bà Hùng Định vui mừng đã đặt tên con là Trắc và Nhị để dễ bề nuôi nấng. Thần tích làng Hạ Lôi chép rằng: “Hai bà là chị em sinh đôi, sinh ngày mùng 1 tháng 8 năm Giáp Tuất (tức năm 14 sau công nguyên). Là dòng dõi con nhà lạc tướng, sớm có chí phục quốc, hai chị em có tư chất thông minh, xinh đẹp, có tài năng khác thường. Đặc biệt là Trưng Trắc tỏ ra là người “rất can đảm, dũng lược”.
Đến khi trưởng thành, hai chị em được cha dạy binh thư võ nghệ, thạo đường cung kiếm. Khi ông Hùng Định qua đời, bà Trần Thị Đoan nuôi dạy con theo ý nguyện của ông.
Được tin vợ chồng ông Đỗ Năng Tế và bà Tạ Cẩm Nương quê ở xứ Đoài là người hiền tài, giỏi việc quân; bà Đoan liền mời hai ông bà về dạy bảo cho con.
Chẳng bao lâu, Trưng Trắc và Trưng Nhị đã trở thành người giỏi võ công, văn trị. Khi ấy ở thành Luy Lâu có tên Ngụy Húc người Hán, rất giỏi võ nghệ và thâm độc. Ngụy Húc mượn cớ mở đài thi võ để tập trung người tài Nam Việt rồi tìm cách triệt hạ. Vô cùng căm phẫn trước hành động gian ác của giặc, hai bà cải trang giả làm trai đến thi võ nghệ với Ngụy Húc. Cuối cùng hai bà đã giết Ngụy Húc trừ họa cho dân, bấy giờ Hai Bà Trưng mới tròn 17 tuổi.
Năm 19 tuổi Trưng Trắc kết duyên cùng Thi Sách cũng là con lạc tướng ở huyện Chu Diên. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: “Thi Sách cũng là con Lạc Tướng”, con hai nhà lạc tướng kết hôn với nhau”. Hai thế lực ở địa phương gắn bó với nhau bằng con đường hôn nhân, làm cho thanh thế của hai họ càng lên cao, khiến cho kẻ giặc lo sợ.
Nhà Đông Hán cai trị nước ta, chia nước ta thành ba quận: Giao chỉ (Bắc Bộ ngày nay), Cửu Chân (Thanh, Nghệ, Tĩnh) và Nhật Nam (từ phía nam Hoành Sơn đến núi Đại Lãnh) để dễ bề cai trị và thực hiện âm mưu đồng hóa. Nhà Hán bắt nhân dân ta phải cống nạp đủ mọi thứ của ngon, vật lạ. Năm Giáp Ngọ (34 sau công nguyên) Tô Định được cử sang Nam Việt làm Thái Thú quận Giao chỉ, thủ phủ ở Luy Lâu.
Tô Định tham lam, tàn ác, thường xuyên giết hại vô cớ nhiều dân thường, đàn áp các thủ lĩnh địa phương người Việt. Trước cảnh nước mất nhà tan Thi Sách và Trưng Trắc bàn mưu tính kế nổi dậy chống lại nhà Đông Hán. Biết được điều đó, tên Thái Thú Tô Định đã lập mưu kế hãm hại ông Thi Sách nhằm lung lạc ý chí của bà Trưng Trắc và tinh thần đấu tranh của nhân dân ta. Hành động đó của Tô Định đã thổi bùng ngọn lửa căm thù giặc trong lòng bà Trưng Trắc. Quyết chí phục thù, bà Trưng Trắc cùng mẹ và em gái đi khắp mọi miền đất nước phát động, tập hợp các Lạc tướng, bạn hữu, đồng thời tích trữ lương thảo chuẩn bị nổi dậy khởi nghĩa. Các Lạc tướng ở các địa phương đến tụ hội và dẫn theo các binh sĩ của mình cùng với Hai Bà khởi binh. Bà Trưng Trắc gửi lịch chiêu dụ trong toàn quận giao chỉ, sau khoảng 15 ngày tướng sĩ các miền tìm đến tụ nghĩa đông đảo, số lượng đến hàng vạn người. Khi đã chuẩn bị đầy đủ quân lương, thời cơ chín muồi, ngày mùng 6 tháng Giêng năm Canh Tý (Năm 40 sau công nguyên), Hai Bà đã cho quân sĩ lập đàn tế cáo trời đất, tiến hành cuộc khởi nghĩa. Lời tuyên thệ trong buổi lễ có đoạn: “… Thiếp là cháu gái vua Hùng thuở trước, hôm nay đau lòng thương dân vô tội, lấy nghĩa trừ tà. Nguyện xin các vị thần linh hội họp tại đêm này chứng giám và phù hộ cho Thiếp. Thiếp là Trưng Nữ dấy binh dẹp giặc, che chở dân lành, thu phục lại muôn vật cũ của tổ tông. Không phụ ý trời, thỏa mãn nơi đầu miếu của các bậc đế vương các đời, không phụ sự trông đợi của Tổ phụ nơi chín suối”. Hà Bà cùng tướng sĩ kéo quân vây hãm đánh thành Luy Lâu, Thủ phủ của chính quyền đô hộ nhà Đông Hán đập tan bộ máy thống trị của giặc. Tướng Ả Tắc, Ả Dị là hai chị em ruột quê ở Đồng Châu (Hải Phòng) đóng quân ở Văn Lan (Văn Quan – Trí Quả) hợp quân vây đánh, hạ thành Luy Lâu. Tướng Lê Chân cùng quân bắc thang qua thành vây đánh Tô Định. Trước khí thế ngút trời của quần chúng khởi nghĩa, bọn quan lại, Đông Hán không chống cự nổi phải tháo chạy về nước. Thái thú Tô Định bỏ thành trì, ấn tín, cắt tóc, cạo râu trốn chạy về Nam Hải. Chỉ trong vòng hai tháng, quân Hai Bà Trưng đã thu phục được 65 thành trì, giải phóng toàn đất nước, giành lại chủ quyền về tay nhân dân. Mùa hè năm Canh Tý (40 sau công nguyên) Bà Trưng Trắc được Tướng sĩ tôn lên làm vua, lấy hiệu là Trưng Vương đóng đô tại lỵ sở Mê Linh, quê hương của Hai Bà. Để đào tạo nhân tài cho đất nước, Hai Bà đã lập ra: “Chiêu Văn quân” ngày nay thuộc làng Văn Quán, xã Văn Khê, huyện Mê Linh. Để giữ vững những nơi hiểm yếu, Trưng Vương cho các Tướng sĩ được đem quân về địa phương cũ, giao quyền trong coi việc dân, vừa sản xuất, vừa luyện binh. Trưng Vương tôn thêm mẫu là Hoàng Thái Hậu, phong cho em gái Trưng Nhị là Bình Khôi công chúa. Các tướng sĩ có công lao đánh giặc cứu nước đều được phong thưởng chức tước, tiền bạc, ruộng đất. Nhân dân cả nước xá thuế trong hai năm. Được tin Trưng Trắc xưng vương Hoàng đế nhà Đông Hán là Hán Quang Vũ vô cùng tức giận, sai phục ba tương quân Mã Viện đem 2 vạn quân chủ lực, cùng 2000 thuyền, xa kéo sang xâm lược nước ta bằng hai cánh quân thủy bộ. Mã Viện trực tiếp chỉ huy cánh quân bộ, Đoàn Chí chỉ huy quân thủy. Tại Vân Đồn, Tướng Lê Chân bố trí chặn đánh cánh quân thủy của Đoàn Chí. Đoàn Chí bị tử trận, quân thủy bị thiệt hại nặng. Mã Viện thâu tóm chỉ huy cả hai cánh quân thủy và bộ. Sau một năm cầm cự với giặc, nghĩa quân của Hai Bà đã chiến đấu vô cùng anh dũng. Ả Tắc-Ả Dị được giao nhiệm vụ cố thủ ở làng Văn Lan để bảo vệ thành Luy Lâu đã anh dũng hy sinh. Hai Bà vừa đánh vừa rút về Cẩm Khê (Yên Lạc-Vĩnh Phúc ngày nay). Mã Viện đón quân đuổi theo, Hai Bà đã quyết chiến đến hơi thở cuối cùng. Về đến Hát Môn rồi gieo mình xuống dòng Hát Giang tuẫn tiết, vào ngày mùng 8 tháng 3 năm Quý Mão (Năm 43 sau công nguyên). Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và triều Trưng Vương chỉ giữ được độc lập tự chủ trong vòng 3 năm (40-43 sau công nguyên) nhưng sự kiện lịch sử này có ý nghĩa lớn, ảnh hưởng mạnh mẽ đối với các thế hệ, người Việt Nam. Tinh thần dân tộc, chủ nghĩa yêu nước đã sớm trở thành ý thức dân tộc. Mọi người dân Việt Nam tự giác bảo vệ Tổ quốc, bản sắc dân tộc, lối sống của dân tộc, giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Để lại lịch sử cho đời sau tinh thần đấu tranh giữ nước, giữ độc lập dân tộc, không chịu khuất phục bất cứ kẻ thù nào.
—o—o—o—
NHỮNG CON NGƯỜI BÊN DÒNG SÔNG DÂU
CAO LỖ
BIỂU PHẬT NƯƠNG
Nữ tướng Biểu Phật Nương, hay còn gọi là Biểu Phật, là một nữ tướng thân cận của Hai Bà Trưng.
Tương truyền, Thanh Tương nằm ở ngay cửa Bắc thành Luy Lâu bên bờ sông Đuống xưa. Dưới thời đô hộ của nhà Hán, người làng đã có nghề ca hát phục vụ quan lại cai trị đóng ở trong thành. Khi nghĩa quân của Hai Bà Trưng kéo về đánh chiếm thành Luy Lâu, ca nương Biểu Phật Nương người Thanh Tương đã làm nội ứng mở cổng thành cho quân Hai Bà kéo vào công chiếm, phá thành. Biểu Phật Nương trở thành nữ tướng tuỳ tùng của Hai Bà. Sau khi khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại, dân Thanh Tương đã lập đền thờ tưởng nhớ nữ tướng Biểu Phật Nương và làng Thanh Tương còn được biết đến với tên gọi làng Tướng từ đó.
Làng có chùa Phi Tướng (tên chữ là Phi Tướng đại thiền tự) còn gọi là chùa Tướng, nay nằm ở khu phố Khương Tự, phường Thanh Khương, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Chùa thờ vị Pháp Lôi là vị Phật chủ quản về sấm, thuộc hệ thống chùa gốc của Tứ Pháp Man Nương thờ Pháp Vân – Pháp Vũ – Pháp Lôi – Pháp Điện.
SĨ NHIẾP
Lăng Sĩ Nhiếp | Thái Thú Phương Bắc Được Dân Yêu Quý | Sĩ Nhiếp Vương | Tổ Học Nước Nam
Đền Lũng, Lũy Lâu thờ phụng thái thú Sỹ Nhiếp
Kinh hãi khi thi hài 200 năm mặt vẫn như sống và câu chuyện trộm mộ Sĩ Nhiếp được tiết lộ
Thái Thú Sĩ Nhiếp Là Ai? Vai Trò Của Sĩ Nhiếp Trong Lịch Sử Và Văn Hóa Việt Nam | BÍ ẨN SỬ VIỆT
BẮC THUỘC LẦN II / KỶ SĨ VƯƠNG – SĨ NHIẾP
PHẬT TỔ MAN NƯƠNG
KHÂU ĐÀ LA
TỲ NI ĐA LƯU CHI
Theo sách Cổ châu pháp vân bổn hạnh ngũ lục thì vào khoảng đời Đông Tấn (317-419) có một Pháp sư tên là Tì-ni-đa-lưu-chi, người Ấn Độ, nhận thấy ở Nam Việt đã hiểu đạo Phật liền qua tìm hiểu ở chùa Phi Tướng rồi sau đó trú ở tại chùa Pháp Vân, giảng dạy Phật pháp. Và từ đó Phật giáo Việt Nam thịnh hành. Chùa Phi Tướng là nơi đầu tiên Tỳ Ni Đa Lưu Chi đặt chân đến khi vào nước Việt.
Chia sẻ:
Scroll to Top