LANG LIÊU (TIẾT LIÊU)

Loading

LANG LIÊU
Lang Liêu còn gọi là Tiết Liêu, là con vua Hùng Vương thứ 6, và sau này được truyền ngôi để lên làm vua Hùng Vương thứ 7
Lang Liêu, con vua Hùng Vương 6, sau là vua Hùng Vương 7, mang quân từ kinh đô Phong Châu hội quân với Gióng. Trên đường đi thì có người con gái tên là Ngọc Tiêu dẫn người từ núi Tam Đảo đến tụ nghĩa dưới trướng của quân đội Lang Liêu. Sau đó Lang Liêu, Ngọc Tiêu cùng dẫn quân theo tụ nghĩa với nghĩa quân của Gióng. Sau khi thắng giặc Lang Liêu cũng về Phong Châu. Người con gái tên Ngọc Tiêu cùng Lang Liêu đánh giặc Ân xong thì về lại núi Tam Đảo (sau này Lang Liêu kế vị làm vua Hùng thứ bảy thì lên núi Tam Đảo đón nàng về kinh đô Phong Châu làm vợ).
LANG LIỆU – CÙNG VỚI THÁNH GIÓNG ĐÁNH GIẶC ÂN
SỰ TÍCH BÁNH CHƯNG – BÁNH DẦY
Theo cuốn Lĩnh Nam Chích Quái :
Vua Hùng sau khi phá xong giặc Ân rồi, trong nước thái bình, nên lo việc truyền ngôi cho con, mới hội họp hai mươi hai vị quan lang công tử lại mà bảo rằng: “Ai đem lễ vật hợp với ý của ta đến dâng cúng Tiên Vương cho tròn đạo hiếu thì ta sẽ truyền ngôi cho”
Các lang đua nhau đi tìm các vị trân kỳ, hoặc săn bắn, chài lưới, hoặc đổi chác, đều là của ngon vật lạ, nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Duy có lang thứ mười tám tên là Lang Liêu, mẹ hàn vi, đã bị bệnh qua đời rồi, trong nhà lại ít người nên khó bề toan tính, ngày đêm lo lắng, ăn ngủ không yên.
Chợt nằm mơ thấy thần nhân bảo rằng: “Trong trời đất không có vật gì quý bằng gạo, vì gạo là vật để nuôi sống con người và có thể ăn mãi không chán, không có vật gì hơn được. Nếu giã gạo nếp gói thành hình tròn để tượng trưng cho Trời và lấy lá gói thành hình vuông để tượng trưng cho Đất, ở trong làm nhân ngon, bắt chước hình trạng trời đất bao hàm vạn vật, ngụ ý công ơn dưỡng dục của cha mẹ, như thế thì lòng cha sẽ vui, nhà ngươi chắc được ngôi quý”. Lang Liêu giật mình tỉnh dậy, vui mừng.
Chàng lựa những hạt nếp trắng tinh, không sứt mẻ, đem vo cho sạch, rồi lấy lá xanh gói thành hình vuông, bỏ nhân ngon vào giữa, đem luộc chín tượng trưng cho Đất, gọi là bánh chưng. Lại lấy nếp nấu xôi đem quết cho nhuyễn, nhào thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, gọi là bánh giầy.
Đúng kỳ hẹn, Vua hội họp các con lại để mang lễ vật đến cúng Tổ tiên. Các lang mang tới toàn là sơn hào hải vị, duy chỉ có Lang Liêu đem bánh hình tròn, bánh hình vuông đến dâng. Hùng Vương lấy làm lạ hỏi Lang Liêu, Lang Liêu trình bày như lời thần nhân đã bảo. Vua nếm thử thì thấy vị ngon vừa miệng ăn không chán, phẩm vật của các công tử khác không làm sao hơn được. Vua khen ngợi hồi lâu, rồi lấy lễ vật của Lang Liêu đem cúng tổ tiên. Vua dùng thứ bánh ấy để cung phụng cha mẹ trong các dịp lễ tết cuối năm. Thiên hạ mọi người đều bắt chước theo. Tục này còn truyền cho đến bây giờ, lấy tên của Lang Liêu, gọi là Tết Liệu.
Hùng Vương truyền ngôi cho Lang Liêu; hai mươi mốt anh em kia đều chia nhau giữ các phiên trấn, lập làm bộ đảng, trấn thủ những nơi núi non hiểm trở. Về sau, anh em tranh giành lẫn nhau, mỗi người dựng “mộc sách” (hàng rào cây bằng gỗ) để che kín, phòng vệ. Vì thế, mới gọi là Sách, hay là Trại, là Trang, là Phường. Sách, hay Trại, Trang, Phường bắt đầu có từ đây vậy
—o—o—o—
LÀNG DỮU LÂU – NƠI LANG LIÊU LÀM BÁNH CHƯNG BÁNH DẦY LẦN ĐẦU
Theo truyền thuyết và sử sách ghi lại, hoàng tử Lang Liêu sống tại làng Dữu Lâu, nay thuộc phường Dữu Lâu, thành phố Việt Trì, nên đây có thể coi là nơi đầu tiên ở Việt Nam làm bánh chưng và bánh dầy. Làng Dữu Lâu có tên nôm là làng Trầu hoặc làng Giầu.
Sau khi lên ngôi vua, Làng Liêu lấy hiệu là Hùng Chiêu Vương. Khi ông băng hà, nhân dân làng Dữu Lâu lập miếu thờ, gọi là “Dữu Lâu Vũ Miếu” và tôn vinh là Lang Liêu Đại Vương.
Đến thời vua Lê Thánh Tông đã cho các quan bộ lễ đi khảo sát các nơi thờ cúng Tổ Tiên, xem xét, xếp đặt lại các đền, chùa, đình, miếu, đồng thời ghi chép lại di tích, sự tích và truyền thuyết lập ra các thần tích cho từng làng. Khi xem xét lại sự tích và các di tích ở vùng Dữu Lâu, vua đã truyền chỉ : Hợp nhất Miếu Dữu Lâu thờ Lang Liêu Đại Vương và Đền Ổ Rồng thờ Tản Viên Sơn Thánh để thờ chung ở đình làng.
Hiện nay Lang Liêu được thờ ở đình làng Dữu Lâu và được coi là tổ nghề nấu ăn.
—o—o—o—
LĂNG THỊ TIÊU

Truyền thuyết kể rằng, ở xã Đông Lộ thuộc vùng Tây Thiên, Tam Đảo (nay là thôn Đông Lộ, xã Đại Đình, huyện Tam Đảo) có vợ chồng vị tù trưởng rất nổi tiếng là Lăng Phiêu và Đào Thị Liễu, tuổi đã gần 40 mà chưa sinh con. Trong một lần lên Tây Thiên cầu tự, bà họ Đào mơ thấy trong đám mây vàng có một quần tiên nữ khoảng 7 -8 người đang chơi vui, người thì hát, người thì múa, người thì làm thơ, cho đến mờ sáng thì bay về phương Tây. Từ ấy bà cảm động trong người rồi có thai. 10 tháng sau, bà sinh được một người con gái sắc đẹp chim sa cá lặn, đặt tên là Tiêu, tên hiệu là Nhược Cẩm, lên 4 tuổi biết đàn hát, 6 tuổi hiểu thông văn võ, đến 12 tuổi đã nữ công, nữ tắc không gì là không tường tận, trở thành một trang nữ kiệt ở vùng Đông Lộ và một số huyện lân cận.

Khi trong nước có loạn giặc Thục, bà tuyển mộ ở các xã lân cận và huyện xung quanh được gần 4000 tráng đinh, đến thành Phong Châu, Việt Trì giúp nước, lại được vua Hùng giao thêm 2 vạn quân tinh nhuệ và 3000 ngựa chiến đi đánh Thục.

Dẹp xong giặc Thục, bà được phong là Tam Đảo sơn trụ quốc mẫu đại vương.

Đất nước hòa bình, bà lại trở về Đông Lộ, lập ra các cung sở để du ngoạn, chọn Tây Thiên trên núi Tam Đảo làm nơi  ở.

Trời sai 1000 vị sứ giả xuống đòi bà về triều, bà tắm gội rồi ra đi.

Chia sẻ:
Scroll to Top