Hình tượng thuyền trong tục ngữ ca dao

Loading

BÓNG THUYỀN & BÓNG TRĂNG

Bóng trăng em ngỡ bóng đèn
Bóng cây em ngỡ bóng thuyền anh sang.

—o—

BÓNG THUYỀN & BÓNG NƯỚC

Bóng trăng em ngỡ bóng đèn
Bóng nước em ngỡ bóng thuyền anh xuôi.

—o—.

THUYỀN & BÓNG NƯỚC

Đêm nằm bàng bạc ánh trăng,
Ngân Sơn bên đó, Mằng Lăng bên này
Thuyền xao bóng nước gió lay
Lòng em xáo động chàng hay chăng chàng?
Một dòng nước chảy Tam Giang
Bởi lời cha mẹ phụ phàng tình anh

—o—

BÓNG THUYỀN & SÔNG

Sông tôi chẳng có bóng thuyền
Mong gì hứng gió những miền biển khơi
Tủi lòng sông lắm thuyền ơi
Đừng chê thôn nhỏ ham nơi phố phường

—o—

THUYỀN & BÓNG CÙ LAO

Yến đâu văng vẳng trên cao
Lửa chài soi bóng Cù Lao trước thuyền

—o—

THUYỀN & SÔNG

Trời mưa cho lúa thêm bông
Cho đồng thêm cá, cho sông thêm thuyền

—o—

THUYỀN & BẾN

Bấy lâu thuyền bến xa khơi
Như dao cắt ruội, như vôi đổ lòng

—o—

Ấy ai dắt mối tơ mành
Cho thuyền quen bến cho anh quen nàng

—o—

Bến hiền thuyền đậu
Bến dữ thuyền lui
Ngọn nước chảy ngược, thời ai bỏ sào xuôi
Làm sao ta với bạn còn tới lui dài ngày

—o—
Thuyền em bến dưới ngược lên
Thuyền anh ở mạn sông trên mới về
Đôi bên cửa máng song kề
Bên đấy có chật thì về bên đây
—o—
Một thuyền một bến một dây
Ngọt bùi ta hưởng đắng cay chịu cùng
—o—

Thuyền ai đỗ bến đợi chờ
Tình đi nghĩa ở, bao giờ quên nhau
Chẳng nên tình trước nghĩa sau
Bến này dãi bóng trăng thâu đợi thuyền
Đôi ta như cặp chim quyên
Dầu khô dầu héo cũng chuyền cũng bay
Khát thì uống nước bọng cây
Đói ăn bông cỏ, thiếp đây vẫn chờ

—o—

Đã lòng hẹn bến hẹn thuyền
Chờ anh hàng muối cho duyên mặn mà
Vì chưng bướm bướm hoa hoa
Gặp anh hàng trứng hóa ra đổi lòng

KHOANG THUYỀN

Thuyền tôi ván táu, sạp lim
Đôi mạn săng lẻ lại có con chim phượng hoàng
Tiện đây mời cả bạn hàng
Rửa chân cho sạch vào khoang ta ngồi

THUYỀN & LÁI

Thuyền theo lái, gái theo chồng

—o—

Đây cũng muốn chờ, ngặt bóng trăng lờ, thêm cơ diệu vợi,
Thuyền lái đây sẵn sàng, e chờ đợi luống công

—o—

Một thuyền một lái chẳng xong
Một chĩnh hai gáo còn nong tay vào
Em xót thương anh phất ngọn cờ đào
Còn thò tay bẻ mận em dạ nào dám ưng

THUYỀN BỒNG

Thuyền bồng : Loại thuyền mình bầu, mũi bằng, đuôi cao và có mui.

Ai kia một mạn thuyền bồng
Kẻ loan người phượng mặc lòng ngược xuôi

—o—

Đêm khuya ngồi tựa khoang bồng
Sương sa, gió lạnh, chạnh lòng nhớ anh

—o—

Nhất cao là núi Chóp Chài
Nhất rộng là bể, nhất dài là sông
Nhất giang hồ là kẻ đàn ông
Bồng bềnh một chiếc thuyền giong hải hà

—o—

Anh thương em
Thương quấn, thương quýt
Bồng ra gốc mít, bồng xích gốc xoài
Bồng ra ngoài đám sậy, bồng bậy vô mui
Bồng lủi sau lái, bồng ngoái trước mũi
Để em nằm xuống đây
Kể từ em đau ban cua lưỡi trắng 
Tiếc công anh đỡ đứng bồng ngồi
Bây giờ em vinh hiển, em bắt anh bán nồi làm chi.

—o—

THUYỀN SÓNG

Biển rộng mênh mông thấy thuyền với sóng
Tàu chạy ầm ầm nhớ bóng hiền thê
Anh nói với em anh đi ba năm mãn hạn anh về
Ai hay anh thấy đầm thấy đĩ mà mê
Bỏ cha già mẹ yếu bốn bề cho em

—o—

THUYỀN QUYÊN

Trai anh hùng, gái thuyền quyên

—o—

Sông kia nước đục lờ lờ,
Cắm sào đợi mãi bao giờ nước trong.
Có lòng chờ khách tang bồng,
Thuyền quyên còn đợi anh hùng nơi nao.

—o—

Hỡi người con gái má hồng,
Sao cô chẳng kén chút chồng làm vui.
Một mình tựa bóng hôm mai,
Đèn khuya trong bóng lấy ai bạn cùng.
Thuyền quyên sánh với anh hùng,
Yêu nhau xin chớ đãi đùng nhau chi.

—o—

Tà tà bóng ngả về tây
Ăn chi rứa bạn, cho đây ăn cùng
– Thuyền quyên đã biết anh hùng
Ăn khoai cho đỡ đói, có ăn cùng thì ăn

—o—

Bồng bống bông,
Màn Đổng Tử, gối Ôn Công,
Lớn lên em phải ra công học hành,
Làm trai gắng lấy chữ danh,
Thi thư nếp cũ, trâm anh dấu nhà.
Hỡi ha ha,
Chị nay chút phận đàn bà,
Tam tòng tứ đức, phận là nữ nhi.
Mong em khôn lớn kịp thì,
Năm xe lầu thuộc, sáu nghề tinh thông.
Bồng bống bông,
Anh tài ra sức vẫy vùng,
Nữ nhi lại cũng bạn cùng bút nghiên.
Cõi đời là cuộc đua chen,
Anh hùng cũng thể, thuyền quyên cũng là.

—o—

Anh muốn trông
Anh lên Ba Dội anh trông
Một Dội anh trông
Hai Dội anh trông
Trống thu không ba hồi điểm chỉ
Anh ngồi anh nghĩ
Thở vắn than dài
Trúc nhớ mai
Thuyền quyên nhớ khách
Quan nhớ ngựa bạch
Bóng lại nhớ cây
Anh nhớ em đây
Biết bao giờ cho được
Đạo vợ chồng chẳng trước thì sau
Trăm năm xin chớ quên nhau.

—o—

Cheo leo nước đỉnh non Bồng
Kìa am Vũ Khách, nọ vùng Mao Tiên
Bởi thấy thuyền quyên, khiến cho anh rầu rĩ
A, thôi đi nà, bực lắm nà, da diết lắm nà
Nuốt ức xong cái chung tình từ xưa cho đến nay
Kìa kìa, ngọn đèn ai thắp hướng tây
Một ngọn đèn chong
Hai ngọn đèn chong
Ba bốn ngọn đèn chong
Ngó vào trong lặng phắt ngó ngoài này xơ rơ
Tình bằng thì giữ trong cái ba ta
Lo bề quân lính kẻo mà nát lưng.

—o—

THUYỀN CHÀI

Con cá bống cát nằm trên bãi cát
Con chim thằng chài đậu chiếc thuyền chài
Anh với em nỏ thành gia thất vì ai?
Xưa kia trúc đã làm bạn với mai một cành

—o—

Cô Thỉ cô Thi
Cô đang đương thì, cô kẹo với ai ?
Cô Tú kẽo kẹt cô cai
Vợ chồng thuyền chài kẽo kẹt dưới sông
Mâm cốm kẹo với mâm hồng
Bát bịt, mâm đồng kẽo kẹt một nơi
Mâm thịt kẹo với mâm xôi
Thịt bùi xôi dẻo kẹo nơi bà già
Cùi dừa kẹo với bánh đa
Cái đĩa thịt gà kẹo với lá chanh
Nồi cơm kẹo với nồi canh
Quả bí trên cành kẹo với tôm he
Bánh rán kẹo với nước chè
Cô kia cò kè kẹo với ai đây ?
Bà cốt kẹo với ông thầy
Con chim loan phượng kẹo cây ngô đồng

—o—

THUYỀN RỒNG

Một đêm tựa mạn thuyền rồng
Còn hơn chín kiếp ngồi trong thuyền chài

—o—

THUYỀN BUỒM

Cái cò là cái cò con
Mẹ đi xúc tép, để con ở nhà
Mẹ đi lặn lội đồng xa
Mẹ sà chân xuống, phải mà con lươn
Ông kia có cái thuyền buồm
Chở vào rừng rậm xem lươn bắt cò
Ông kia chống gậy lò dò
Đi vào bụi rậm xem cò bắt lươn
Con cò cắp cổ con lươn
Con lươn cũng cố quấn quanh cổ cò
Hai con, cò kéo, lươn co
Con lươn tụt xuống con cò bay lên

—o—

Nghìn thu gặp hội thái bình,
Trải xem phong cảnh khắp thành Thăng Long.
Phố ngoài bao bọc thành trong,
Cửa Nam, Giám, Bắc, Tây, Đông rõ ràng.
Ba mươi sáu mặt phố phường,
Hàng Giầy, Hàng Bạc, Hàng Ngang, Hàng Đào.
Người đài các, kẻ thanh tao,
Qua hàng thợ Tiện lại vào Hàng Gai.
Hàng Thêu, Hàng Trống, Hàng Bài,
Hàng Khay trở gót ra chơi Tràng Tiền
Nhác trông chẳng khác động tiên,
Trên đồn cờ kéo, dưới thuyền buồm giăng.
Phong quang lịch sự đâu bằng,
Dập dìu võng lọng, tưng bừng ngựa xe

—o—

MẠN THUYỀN

Gác chèo ngồi tựa mạn thuyền
Trăng in mặt nước, càng nhìn càng say

—o—

Chén son để cạnh mạn thuyền
Chén son chưa cạn, lời nguyền chưa phai

—o—

NGỒI THUYỀN

Hỡi cô yếm thắm răng đen
Muốn lên mạn ngược ngồi thuyền cùng anh!

—o—

ĐI THUYỀN

Em là con gái Đàng Trong
Em đi thuyền dưới mất lòng thuyền trên
Ba năm ăn ở trên thuyền
Bởi anh hàng muối cho nên mặn mà
Xuống thuyền nhịp bảy nhịp ba
Trách anh hàng trứng ở ra hai lòng

—o—

TRÊN THUYỀN

Ba năm ăn ở trên thuyền
Bởi anh hàng muối cho nên mặn mà
Xuống thuyền dịp bảy dịp ba
Trách anh hàng trứng cho ra hai lòng

—o—

THUYỀN EM THUYỀN ANH

Thuyền em bến dưới ngược lên
Thuyền anh ở mạn sông trên mới về
Đôi bên cửa máng song kề
Bên đấy có chật thì về bên đây

—o—

ĐẮM THUYỀN

Yêu lắm làm chi
Nhớ lắm làm chi
Khi xưa anh nói đổ núi Ba Vì
Bể Đông cạn nước anh cũng nằm kề bên em
Ai xui anh cắt đường duyên
Để em chịu nỗi đắm thuyền bên sông

—o—

ĐÓNG THUYỀN

Muốn ăn cá bống, cá hiên
Chạy về bảo mẹ đóng thuyền mà đi

—o—

KHÔNG THUYỀN

Tôi Đà Phật, nàng A men
Hai ta tôn giáo cách hai miền xa xăm
Bỗng đâu gió bão mưa dầm
Để tôi buộc mối đồng tâm với nàng
Thế là đeo lấy dở dang
Bỏ nhau chẳng được, sang ngang không thuyền
Biết rằng duyên lỡ làng duyên
Trăm năm để lại một thiên hận tình
Bảo cho những kẻ đầu xanh
Đến nơi đến tháng cầu kinh thì cầu
Đừng mơ những việc đâu đâu
Mà vương phải kiếp cú sầu vạn niên

—o—
THUYỀN HAI & HAI THUYỀN
Khi xưa anh ở cùng ai,
Bây giờ đặng chiếc thuyền hai, phụ đò.
– Khi xưa anh ở cùng đò,
Bây giờ đò lủng, anh mò thuyền nguyên!
—o–
Chân đạp hai thuyền
—o—
THUYỀN & CHÂN

Linh đinh hai chiếc thuyền sang
Một chiếc chở năm chàng, hai chiếc chở mười chàng mà vẫn linh đinh

Là gì? Chân nước
—o–

Song song hai chiếc thuyền tình
Đầu rồng đuôi phượng đóng đinh hai hàng
Một chiếc em chở năm chàng
Hai chiếc em chở mười chàng ra đi
Trách người quân tử lỗi nghì

Ăn trên ngồi trốc chẳng nghĩ gì đến em

Là cái gì?
—o—

Vè các lái (hát ra)

Tiếng đồn các lái Đồng Nai
Tháng giêng cưa ván, tháng hai đóng thuyền
Tháng ba củi lửa huyên thuyên
Tháng tư dọn thuyền quay lại lộn ra
Sài Gòn, Rạch Giá bao xa
Lần theo tăm cá xa nhà đã lâu
Một trăm ông lái làu làu
Đi qua Giáp Nước, Vũng Tàu phải ghê
Kỳ Vân có bãi lưới rê
Non cao biển thẳm ủ ê tấc lòng
Khúc nôi lụy nhỏ đằm đằm
Xích Ram đã khỏi, Bãi Dầm đã qua
Hồ Tràm, Hồ Đắng de ra
Thân Trong nằm trước, Mũi Bà nằm trong

—o—

ĐỊA DANH

– Vũng Tàu

– Làng đòng thuyền Kim Bồng, Hội An

Cha em thợ mộc Kim Bồng
Muốn em có chồng ở xứ Khánh Vân

—o—

Chồng em là lái buôn tiêu
Ði lên đi xuống Trà Nhiêu, Kim Bồng

—o—

Cá chùa Cầu,
cau Diên Phước,
thước thợ Kim Bồng.

—o—

Kim Bồng là Kim Bồng còi
Rau lang mặn mại mà coi như vàng

—o—

Kim Bồng tốt cải ngon dưa
Gần sông rửa sạch khéo vừa chọn đôi
Khế xanh nấu với ốc nhồi
Tuy nước nó xám mà mùi nó thơm

—o—
Dẹp như đầu cá chai
Tham ăn tranh vợ là trai Kim Bồng
Nhọn như đầu cá nhồng
Tham ăn tranh chồng là gái Cẩm Phô
—o—
Hội An bán gấm, bán điều
Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành
—o—
Ðưa tay hốt nắm dăm bào
Hỏi thăm chú thợ bữa nào hồi công
Không mai thì mốt hồi công
Hội An em ở, Kim Bồng anh dời chân

 

Chia sẻ:
Scroll to Top