GƯƠM VÀNG HỒ TÂY & GƯƠM BÁU HỒ GƯƠM
Gươm vàng rớt xuống hồ Tây
Công cha cũng trọng, nghĩa thầy cũng sâu.
Xưa nay sử sách không nói đến thanh gươm vàng nào rớt xuống Hồ Tây, mà chỉ có sự tích Lê Lợi trả gươm báu cho thần Kim Quy ở Hồ Gươm sau khi chiến thắng giặc Minh. Chúng ta thường hiểu hành động này của Lê Lợi giống như là “Rửa tay gác kiếm”. Được trao gươm báu nghĩa là Lê Lợi có sứ mệnh bảo vệ đất nước, trả lại gươm báu nghĩa là sứ mệnh đã được hoàn thành.
Lê Lợi có liên quan đến Hồ Tây không ? Hồ Tây xưa gọi là hồ Xác Cáo, hồ Thân Cáo và nổi tiếng với Cáo Chín Đuôi. Lê Lợi là vị vua thờ Cửu Vĩ Hồ, biểu tượng của Hồ Tây, không chỉ vì ông đã từng được Hồ Ly cứu, mà ở địa vị là người giải phóng quốc gia và đứng đầu quốc gia, Lê Lợi thờ Hồ Ly với tư cách hộ quốc phu nhân. Vì thanh gươm báu được trao cho Lê Lợi để hộ quốc, cho nên nó chắc chắn phải liên quan đến Cửu Vĩ Hồ.
Phải nói thêm rằng Hồ Quý Ly người chiếm ngôi nhà Trần rồi làm mất nước vào tay giặc Minh có họ Hồ và tên ông nghĩa là con hồ ly quý. Sau khi thắng giặc, Lê Lợi không thừa nhận Hồ Quý Ly mà đưa một tôn thất nhà Trần lên, rồi sau đó mới chính thức lên ngôi vua. Nghĩa là triều đại nhà Lê do Lê Lợi mở ra là kế tục sự nghiệp của nhà Trần.
Cuộc đời của Lê Lợi dường như liên quan sâu sắc đến “hồ”
– Trả gươm báu ở Hồ Gươm
– Thờ Cửu Vĩ Hồ, biểu tượng của Hồ Tây làm Hộ quốc Phu nhân
– Đánh đuổi giặc Minh, xâm lược nước ta vào thời Hồ Quý Ly
SỰ TÍCH GƯƠM BÁU CỦA LÊ LỢI
Thuận Thiên kiếm là thanh kiếm huyền thoại của vua Lê Lợi, tên của nó có nghĩa là thuận theo ý trời. Vào thời gian nhà Minh chiếm đóng Đại Việt, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở vùng Lam Sơn, Thanh Hóa chống nhà Minh. Buổi đầu thế lực nghĩa quân còn non yếu, trước thế mạnh và khả năng tổ chức tốt của quân đội nhà Minh nên Lê Lợi nhiều lần thất bại.
Thấy vậy, Đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần để họ giết giặc. Thanh kiếm không đến thẳng với Lê Lợi mà nó được chia làm hai phần: một lưỡi kiếm và một chuôi kiếm.
Đầu tiên, ở Thanh Hóa, có một ngư dân tên là Lê Thận. Một đêm nọ, Lê Thận đánh cá, anh thả lưới ở một bến vắng. Trong một lần kéo lưới, tự nhiên Thận cảm thấy nằng nặng, trong lòng vui mừng thầm vì tưởng phen này bắt được có cá to. Nhưng khi thò tay lấy cá, Thận nhận ra rằng đó chỉ là một thanh sắt. Thận tiện tay vứt luôn thanh sắt đó xuống nước rồi, đi thuyền thả lưới ở một chỗ khác. Lần thứ hai cất lưới lên cũng thấy nặng, nhưng lại là thanh sắt mà anh đã ném đi kia. Thận tiếp tục ném thanh sắt xuống sông lần hai. Nhưng thanh sắt ấy lại vẫn tiếp tục mắc vào lưới lần thứ ba. Lấy làm lạ, Thận ghé mồi lửa soi để nhìn xem, anh reo lên một mình:
-Ha ha! Một lưỡi gươm!
Lê Thận về sau gia nhập quân khởi nghĩa Lam Sơn. Vì lòng dũng cảm của mình, Thận nhanh chóng thăng tiến trong hàng ngũ nghĩa quân. Một hôm, Lê Lợi cùng tùy tùng đến thăm nhà Thận. Nhà Thận vốn tối om om, bỗng lưỡi gươm hôm đó chợt sáng rực lên soi sáng cả xó nhà. Lấy làm lạ, Lê Lợi tiến đến gần cầm lấy xem và nhận ra có hai chữ “Thuận Thiên” (chữ Hán: 順天) khắc sâu vào trong lưỡi. Song tất cả mọi người vẫn chưa nhận ra đó là báu vật. Một hôm lại bị quân Minh truy đuổi, Lê Lợi và các tướng chạy tháo thân mỗi người một ngả. Lúc đi qua một khu rừng, Lê Lợi bỗng thấy một ánh sáng lạ trên ngọn cây đa. Ông tò mò, liền xuống ngựa trèo lên mới biết đó là một cái chuôi gươm nạm ngọc. Chợt nhớ tới lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, Lê Lợi liền rút lấy chuôi giắt vào lưng. Ba ngày sau, Lê Lợi gặp lại tất cả các tùy tùng, thuộc tướng gồm cả Lê Thận. Ông lấy lưỡi ra tra thử với gươm, khi lắp lưỡi vào với chuôi thì kỳ lạ thay, vừa khớp nhau. Lê Lợi kể lại câu chuyện, mọi người nghe xong đều hồ hởi vui mừng. Lê Thận hai tay nâng gươm lên ngang đầu nói với Lê Lợi:
-Đây là thần có ý phó thác cho “minh công” làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương da của mình theo “minh công” và thanh gươm thần này để báo đền xã tắc!.
Thanh gươm thần với một sức mạnh lạ kỳ giúp Lê Lợi đánh tràn ra, liên tiếp thắng quân Minh và làm quân Minh khiếp đảm, sau cùng là chiến thắng quân Minh, đuổi chúng ra khỏi bờ cõi nước Việt. Mấy năm sau, Lê Lợi lên ngôi vua lập ra nhà Lê, lấy hiệu là Lê Thái Tổ. Một ngày nọ nhà vua đem gươm thần ngồi thuyền rồng dạo chơi trên hồ Tả Vọng, Thăng Long. Bỗng nhiên thanh gươm thần động đậy và có một con rùa vàng chặn lối, nó nổi lên và nói:
Bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân!
Nghe thế nhà vua hiểu ra, nhà vua bèn thò tay rút gươm ra khỏi bao. Chỉ một lát, thanh gươm thần tự bay về phía rùa vàng. Nhanh như cắt, rùa liền ngước đầu lên, há miệng nhận lấy thanh gươm. Cho đến khi rùa lặn xuống, người ta vẫn thấy có vệt sáng le lói dưới mặt nước hồ xanh. Khi những chiếc thuyền của bá quan tùy tùng đuổi lên kịp thuyền rồng thì vua nói với họ:
Đức Long Quân cho chúng ta mượn thanh gươm thần để trừ giặc Minh. Nay đất nước đã thanh bình, người sai rùa lấy lại.
Và từ đó không ai thấy lại thanh gươm thần nữa. Hồ Tả Vọng sau này được đổi tên là hồ Gươm hoặc hồ Hoàn Kiếm để ghi nhớ sự kiện này.
GƯƠM VÀNG : CHẾT KHÔNG BUÔNG NGƯỜI YÊU
Trong huyền sử về hồ Tây không nhắc đến gươm vàng, nhưng gươm vàng là hình tượng phổ biến trong ca dao.
Nếu như ở phương Tây nhẫn vàng là biểu tượng của quan hệ vợ chồng thì trong ca dao Việt, gươm vàng là biểu tượng giữ trọn ân nghĩa vợ chồng đến chết.
Gươm vàng để đó anh ơi
Chết thì chịu chết lìa đôi không lìa
Điều này có vẻ cực kỳ khó hiểu, nhưng đây là thực tế rõ ràng trong ca dao
Cha mẹ bên anh kén nơi gia thế
Phụ mẫu bên em kén rể đông sàng
Hai bên hai lưỡi gươm vàng
Chết thời chịu chết, xa chàng không xa
Anh đi ngang nhà nhỏ
Thấy đôi liễn đỏ
Chữ thọ phết vàng
Hai tay anh nâng lấy gươm vàng
Thác thì chịu thác, chứ buông nàng anh không buông
Gươm vàng là lời thể của hai vợ chồng yêu nhau và bên nhau đến chết. Cầm gương vàng nghĩa là không buông lời thề.
Em thương anh trầu hết lá lương
Cau hết nửa vườn cha mẹ nào hay
Dẫu mà cha mẹ có hay
Nhứt đánh nhì đày hai lẽ mà thôi
Gươm vàng để đó anh ơi
Chết thà chịu chết lìa đôi không lìa
Hỡi người đi dép quai ngang
Tay đeo nhẫn bạc em càng say mê
Thuyền ai chở bến Lương Khê
Hay là chị cả giở bề đánh ghen
Đánh ghen thì mặc đánh ghen
Chuyến này em quyết làm quen với chàng
Đôi tay cầm đôi gươm vàng
Đứt tay em chịu, buông chàng không buông
GƯƠM VÀNG HAI NGỌN
Song song hai ngọn gươm trường
Chết anh anh chịu, buông nường không buông
Gươm vàng không giống gươm thường vì nó có hai ngọn chứ không chỉ có một ngọn.
Gươm vàng hai lưỡi gươm vàng
Thác thì chịu thác, chứ buông nàng không buông.
Là con gì? Con sam
Câu đố này miêu tả con Sam với thân hình hai mảnh vỏ giống như “gươm vàng hai lưỡi”, và đặc biệt là việc nó không bao giờ tách rời nhau, “thác thì chịu thác” (bị vỡ ra) chứ “buông nàng không buông” (không bao giờ tự tách rời nhau).
Vàng là biểu tượng của cân bằng và trung hoà âm dương, giống như trong vàng có bạc và đồng
– Gươm bạc với quân thù, để quyết chiến, để giết
– Gươm đồng với người thân, để đồng hành
Khi gươm báu được trao cho Lê Lợi, ông dùng nó để giết giặc, bảo vệ bản thân, bảo vệ đất nước, nhưng khi lưỡi gươm này được trả về cho đất nước, xứ sở, nó dùng để bảo vệ cha mẹ và khi lưỡi gươm được nắm trong tay, nó dùng để bảo vệ quan hệ tình yêu. Đó chính là tính chất hai ngon của gươm vàng.
Cái gì đúng với gươm vàng Hồ Tây cũng đúng với gươm báu Hồ Gươm. Cho nên khi gươm vàng rơi xuống hồ Tây, gươm này bảo vệ công cha và nghĩa thày.
CẶP ĐÔI GƯƠM & HỒ
Gươm vàng và Hồ thiêng tạo thành một cặp minh khí, dành cho người nam trong vai
– Vua
– Tướng
– Cha
– Thày
– Chồng
– Con trai
– Anh em trai
– Dân (nam)
Cặp minh khí tương ứng ở nữ là gương lược, trong đó hồ ứng với gương và gươm ứng với lược.
Người nữ dùng gương lược không chỉ để soi tỏ và chải đầu tóc của bản thân, nhất là khi có người yêu và lấy chồng, mà còn để soi xét và chải cho các quan hệ khác mà cơ bản đều là quan hệ dòng máu
– Con gái với mẹ
– Mẹ với con
– Vợ với chồng
– Dân (nữ) với cha mẹ đất nước, xứ sở
—o—o—o—
Câu hỏi : Gươm vàng là cái gì mà vừa có khả năng sát thương quân thù, vừa có khả năng nuôi dưỡng các quan hệ trọng yếu nhất như tình vợ chồng, tình cha mẹ và tình thày trò ? Gươm vàng là cái gì mà đi với thần thánh ? Gươm vàng là cái gì đi với hồ thiêng ?