Sự tích Quán Âm Nam Hải có nhiều đoạn nói về địa phủ nhưng tập trung nhất vào đoạn 13.
ĐOẠN 13 : HỒN CÔNG CHÚA DẠO CHƠI ĐỊA PHỦ – LÒNG TỪ CỨU THOÁT NGỤC TÙ
Đoạn 13 có tên “Hồn công chúa dạo chơi địa phủ”, bởi vì công chúa là người trần, người còn sống, không thể đi cả thân thể, mà chỉ có thể tách hồn xuống chơi địa phủ.
Hổ tha vào tới rừng hoang
Đức Chúa mơ màng như lúc chiêm bao.
605. Chẳng hay đây là nơi nào
Biết ai mà hỏi lối vào đường ra?
Khi Chúa Ba bị vua cha xử chết, hổ đã đến cứu bà, mang tới rừng hoàng, ở đây bà rơi vào trạng thái mơ màng.
Bàng hoàng phách nguyệt hồn hoa,
Thấy Thanh Y sứ đến mà hỏi han,
Tay cầm bảo cái cờ phan,
610. Hào quang sáng khắp mọi ngàn dưới trên.
Thanh Y Sứ là sứ giả áo xanh của Diêm Vương. Thanh Y Sứ cầm bảo cái cờ phan, là một loại cờ vải thông báo về việc mở cửa đón khách hoặc tiếp dẫn chúng sinh.
Trình: “Có Diêm Vương lệnh truyền
Dạy mời đức Chúa về đền Phong Đô.”
Chúa Ba được Diêm Vương tiếp đón, mời về đền Phong Đô. Nếu như ở Thiên đình có cung điện của Ngọc Hoàng, ở Thuỷ phủ có cung điện của Long Vương, thì ở Địa phủ có đền Phong Đô, là nơi đóng đô của gió, của quỷ thần, của linh hồn, của Phong Đô Đại Đế hay Diêm Vương vị thần cai trị toàn bộ cõi địa phủ u minh.
Qua mười tám cửa ngục tù
Hỏi: “Đây là chốn ở đâu tên gì?”
615. Thưa rằng: “Địa phủ, Minh ty.”
Mười tám cửa ngọc tù là cấu trúc đất của Địa Phủ, giống như Bốn phương tám hướng trên Dương gian hay Cửu trùng thiên của Thiên giới.
Chúa mới ngẫm lại một khi sự lòng,
“Hẳn ta chẳng chịu lấy chồng,
Vua cha đem giết thác trong chốn này.”
Khi biết mình ở Địa Phủ Minh Ty, chúa Ba tưởng mình đã bị vua cha giết chết.
Sứ rằng: “Chẳng phải vậy vay,
620. Mười vua Thập điện rước người xuống chơi.
Xin mời người hãy tới nơi,
Lại về dương thế rày mai chẳng chày.”
Sứ giả bèn giải thích rằng bà chưa chết, mà mười vua Thập điện rước bà xuống chơi, chơi xong rồi lại quay về dương thế ngay.
Mười vua Thập điện, Thập điện Minh Vương là cấu trúc trời của Minh Ty, giống như cấu trúc Thiên Can.
Như vậy
– Cửu trùng thiên là cấu trúc trời của Thiên đình, đối xứng với Thập điện, cấu trúc trời của Minh Ty (Âm Phủ)
– Bốn phương tám hướng là cấu trúc đất của Trần gian, đối xứng với 18 tầng điạ ngục của Địa Phủ
– Cung điện của Ngọc Hoàng ở Thiên đình đối xứng với đền Phong Đô ở Địa phủ. Ngọc Hoàng đối xứng với Phong Đô Đại Đế.
Chúa theo sứ giả liền đi,
Mười tám cửa ngục một khi tới gần.
625. Những quân canh ngục vui mừng,
Đầu trâu đón rước dăng dăng hai hàng.
Đầu trâu là quân canh ngục ở 18 cửa ngục của 18 tầng địa ngục. Họ rất vui khi chúa Bà đến thăm.
Chúa trông vào chốn ngục đường,
Gió lạnh hơi thấu đến xương lạnh lùng.
Tối tăm ngày cũng mịt mùng
630. Quân tù eo óc, đứa trong, đứa ngoài.
Dưới địa ngục, gió lạnh và tăm tối mịt mùng. Bóng tối thường được đồng hoá với Địa Phủ (như ánh sáng đồng hoá với Thiên đình) và Phong Vũ đồng hoá với Minh Ty.
Chúa mới hỏi sứ từng lời,
“Chẳng hay tội nghiệp những người làm sao?”
Thanh Y dẫn lại thấp cao
Tội gì cũng có xiết bao ngục tù.
Người âm bị rơi vào các tầng địa ngục khác nhau do trạng thái tinh thần của họ, khác với dương sống trong các không gian khác nhau như nhà cửa, xóm làng, tỉnh huyện, quốc gia. Người ở trần gian bị vào tù khi bị mắc tội, người ở địa phủ cũng như vậy.
635. Kìa ngục đem ném vạc dầu
Xác người sùng trụng từ đầu đến chân.
Dưới thời lửa đốt cháy rân
Dầu sôi người khóc muôn phần khổ thay.
Vì trên trần thế tội dày
640. Trong lòng hiểm độc sâu cay quá chừng.
Bạo nghịch thiên địa Thánh thần
Phật, Tiên, Tổ, khảo, quân, thân với thầy.
Ngục thứ 1 là Vạc dầu sôi. Tù nhân ở trong vạc còn lửa cháy bên dưới vạc. Tù nhân mắc tội hiểm độc và bạo nghịch với thiên địa, thánh thần, phật, tiên, tổ, khảo, quân, thân, và thầy.
Kìa ngục Huyết hồ gớm thay
Hồ sâu những máu tanh nay lạ lùng.
645. Bắt đem nhấn đầu vào trong
Thò lên rắn rết, thuồng luồng cắn ngay,
Bởi vì trút bỏ bào thai
Gian dâm bắt tội cả hai đứa cùng.
Ngục thứ 2 là Huyết hồ, nghĩa là hồ máu, bên trong có rắn rết thuồng luồng. Tù nhân mắc tội trút bỏ bào thai và gian dân.
Kìa ngục Nằm trên bàn chông
650. Chông là chông sắt, lưng hông tồi tàn.
Ngục thứ 3 là Bàn chông.
Ngục Kiếm thụ, ngục Đao sơn
Gươm dao từng đống như ngàn núi cây.
Vất lên da thịt còn gì
Bởi vì người ấy bất nghì, bất nhân
655. Rủ rê lừa lọc ngu dân
Để cho đến nỗi mất thân, mất nhà.
Ngọc thứ 4 là Kiếm thụ, Đao Sơn, dành cho tội lừa lọc tài sản.
Chiết kiều kia ngục Đầu hà
Quỷ sứ đánh bắt cho sa xuống cầu.
Càng cao sa xuống sông sâu
660. Chó đồng, rắn sắt cắn đầu, cắn hông.
Bởi vì lấp giếng ngăn sông,
Phá việc vợ chồng, hại kẻ công danh.
Ngục thứ 5 là Đầu hà. Đại hình là bị quỷ sứ bắt rơi khỏi cầu, xuống sông sâu, ở đó có chó đồng và rắn sắt cắn. Tội lỗi là lấp giếng, ngăn sông, phá việc vợ chồng, hại kẻ công danh.
Kìa bàn vả sắt quỷ binh
Là ngục Chửi chị, chửi anh, chửi chồng.
Ngục thứ 6 là Bàn vả, dành cho người hay chửi bới.
665. Phẫu tâm là ngục Mổ lòng
Những loài bất hiếu, bất trung tiếc gì.
Ngục thứ 7 là Mổ lòng, dành cho loài bất hiếu, bất trung.
Ngục Đâm cối, ngục Dang tay.
Vì phí của trời, bỏ giấy chữ Kinh,
Cho nên cối đâm sình sình
670. Dang hai tay, đóng những đinh sắt vào.
Ngục thứ 8 là Đâm cối và dang tay là hoang phí và bỏ bê học hành, hình đâm cối vào lòng bàn tay
Kìa ngục Bạt thiệt làm sao
Cầm kìm lôi lưỡi, máu trào mà kinh,
Bởi vì miệng lưỡi co quanh,
Đảo điên đơm đặt làm khuynh hãm người.
Ngục thứ 9 là Bạt thiệt, đại hình là cầm kìm lôi lưỡi nói dối, đơm đặt
675. Kìa ngục Hay nói dối đời
Quỷ đứng vả miệng, quỷ ngồi bẻ răng.
Ngục thứ 10 cũng là nói dối, đại hình là quỷ đứng vả miệng, quỷ ngồi bẻ răng
Nào ai dò lưới bắn săn,
Hay giết trâu lợn, hay ăn thịt cầy,
Có ngục Ác thú một bầy
680. Hổ, lang, ưng, khuyển cắn nhai ruột già.
Ngục 11 là tội sát sinh, khi sống hay giăng lưới săn bắt, giết trâu lợn, ăn thịt cầy, khi chết bị hổ, lang, ưng khuyển ăn lại
Xe lửa là ngục Hỏa xa,
Quay đi quay lại thịt da tan tành,
Bởi vì cậy thế, cậy mình
Hiếp kẻ cô quả, cướp tranh ruộng vườn.
Ngục 12 là Hoả sa, đốt thịt da, tội là cậy quyền cậy thế ức hiếp chiếm đoạt.
685. Cột đồng là ngục Đốt than
Mấy tay chức dịch tham tàn phải ôm.
Ngục 13 là Cột động, đốt bằng than, các quan chức tham tàn phải ôm cột
Kìa ngục Rắn hổ, rắn giun,
Quấn người cắn máu lại phun mặt người
Bởi vì bới móc chê bai,
690. Ghen tuông người nọ, dông dài sự kia.
Còn như thân thích thì lìa,
Thấy kẻ đói khát chút gì chẳng cho
Tham tài giữ lợi bo bo
Kẻ cùng, kẻ bệnh, chẳng phù chẳng thương.
Ngục 14 là Rắn cắn, tội ghen tuông, đố kỵ với người hơn mình, nhưng lại keo kiệt với kẻ kém.
ĐIỆN 1 – 8
695. Xiết bao khoảnh độc, cơn ương
Những các người ấy phải mang ngục này,
Xẻ cưa, dựng ngược gớm thay,
Đem đá ném xuống thân thây tan tành.
Ngoài ra còn có xẻ cưa, dựng ngược và ném đá.
Ấy là các cửa ngục hình
700. Đều vì thất đức, tại mình biết sao.
Lòng trần tưởng chẳng chi nào
Ai hay quả bảo khi vào Âm ty.
Các ngục hình này đều là quả báo dưới Âm ty dành cho các tội đã phạm trên trần thế.
Trên đây là các ngục của các điện từ 1 đến 8
(1) Tần Quảng Vương trông coi địa ngục dưới núi Ốc Tiêu.
(2) Sở Giang Vương trông coi địa ngục Hoạt Đại và địa ngục Hàn Băng.
(3) Tống Đế Vương trông coi địa ngục Hắc Thằng.
(4) Ngũ Quan Vương trông coi địa ngục Hợp Đại và Huyết Trì.
(5) Diêm Ma Vương trông coi địa ngục Khiếu Hoán.
(6) Biện Thành Vương trông coi Đại Khiếu Hoán Địa Ngục và Uổng Tử Thành.
(7) Thái Sơn Vương trông coi địa ngục Nhiệt Não.
(
Đô Thị Vương trông coi địa ngục Đại Nhiệt Não.

ĐIỆN THỨ 9 : A TỲ (Bình Đẳng Vương).
Lại xem một ngục A Tỳ
Mấy tầng chông sắt đen sì tối tăm
705. Ngục này thực tội đà thâm,
Biết mấy hình nặng dưới âm mà rằng
Là người làm hại quân, thân
Làm hại thiên hạ muôn dân lắm người.
Mấy người sâu sắc nước đời,
710. Đã được hóa kiếp chẳng chừa ác tâm.
Cơ thâm thì tội cũng thâm
Ác hữu ác báo chẳng nhầm chút nao.
Dối người dối được trời nào
Giới thần, vua Táo soi vào con tim.
715. Dương gian chết có một phen
Phép âm bắt mãi chết liền sống ngay,
Làm cho thảm thiết đọa đày
Cho bỏ lại ngày ác nghiệp dương gian.
Địa ngục A Tỳ là địa ngục liên hoàn, sống đi chết lại, 1 ngày đêm dưới ngục bằng 50 tiểu kiếp trên thế gian. Tội nhân mắc nhiều tội, với nhiều người, xuyên nhiều kiếp. Trong tích có nói đến Vua Táo (chính là Táo Quân) soi xét các tội ở đây.
Chúa Bà thấy nói thở than:
720. “Chẳng đành con mắt, chẳng yên trong lòng.
Ước sao hình ngục vắng không,
Bao nhiêu tội chúng sạch trong làu làu.”
Bỗng thấy ba người đến sau,
Sụt sùi khóc lóc cúi đầu trình thưa:
725. “Bởi vì chùa Tước bữa xưa,
Can liên sự Chúa bây giờ xuống đây.”
Chúa Bà thấy nói thương thay
Gửi xin Diêm phủ tha ngay ba người.
Ba người đã được lên đời,
730. Thanh Y dẫn Chúa chân dời từ lâu.
Có ba người ở chùa Tước, bị đày ở địa ngục A Tỳ, chúa Ba biết chuyện xin Diêm Phủ tha cho, nên họ được lên đời.
Xem thêm về địa ngục A Tỳ
ĐIỆN THỨ 10 : CHUYỂN LUÂN (Chuyển Luân Vương).
Lại vời đến chốn kim cầu
Tràng phan, bảo cái trước sau ngất đường.
Dưới trên những pho pho trương
Rồng vàng, mây đỏ bốn phương chầu vào.
Cảnh sắc thay đổi rất nhiều khi đến Thập điện của đức Chuyển luân vương.
735. Chúa nghe tiếng nhạc xôn xao,
Lại nghe tù khóc lào xào nơi xa.
Về thanh âm, Thập điện có hai âm thanh đối ngược. Thứ nhất là tiếng nhạc và thứ hai là tiếng khóc.
Thanh Y dẫn lại trình qua:
“Có phúc đàn sáo sênh ca đãi đồng.
Vô phúc dẫn vào ngục trung,
740. Phủ việt, chùy đồng khảo đánh giam tra.”
Thanh Y có lý giải về 2 thanh âm này. Tiếng nhạc liên quan đến người có phúc. Tiếng khóc liên quan đến người vô phúc.
Chúa nghe lời nói xót xa
Cảm thương trong bụng kêu ca thiên đình.
Khấn cầu chuyển chú niệm kinh,
Ngọc Hoàng cảm động chí thành tự nhiên.
745. Bảo hoa bay khắp bốn bên,
Hào quang sáng suốt dưới trên ngục thành.
Giang cầm lai láng tan tành,
Bao nhiêu tù rạc nhẹ mình tỉnh ra.
Chúa Ba kêu cầu Thiên đình, Ngọc Hoàng nghe lời cầu.
Thoắt chốc vua Thập Điện qua,
750. Chào hỏi: “Chúa Bà trần thế xuống đây?”
Chúa Bà rằng: “Giã ơn người,
Nhọc phiền Bệ hạ tới đây làm gì!”
Vua rằng: “Nghe đức từ bi,
Mở lòng thương xót độ trì chúng sinh.
755. Khắp mười tám cửa ngục hình,
Một giờ đại xá siêu sinh từ rày.
Thực là đắc đạo linh thay,
Chuyển trong địa ngục ra nay thiên đường.”
Phán đem bảo cái, tàn vàng
760. Hai mươi bốn cặp rỡ ràng bày ra.
Sáu tào đưa tiễn Chúa Bà,
Đến sông Nại Hà rồi mới chia tay.