“Đầu trâu mặt ngựa” thường được giải nghĩa là những kẻ côn đồ hung ác, không còn tính người. Đây là cách giải nghĩa hoàn toàn sai, nhưng đáng tiếc lại rất phổ biến.
ĐẦU TRÂU MẶT NGỰA TRONG SỰ TÍCH MẸ QUÁN ÂM NAM HẢI TÍCH CA
Sự tích Quán Âm Nam Hải, Tích Ca đoạn 13, kể rằng khi chúa Ba được hổ (Thần núi Hương Sơn) cứu khỏi pháp trường, đưa đến một vùng núi rừng. Ở đây, chúa Ba đã gặp Thanh Y Sứ. Thanh Y Sứ vâng lệnh của Diêm Vương mời Chúa Ba về đền Phong Đô qua 18 cửa ngục tù của Địa Phủ Minh Ty. Khi chúa Ba đến gần cửa ngục, những quân canh ngục vui mừng và đầu trâu đón rước dăng dăng hai hàng.
Hổ tha vào tới rừng hoang
Đức Chúa mơ màng như lúc chiêm bao.
Chẳng hay đây là nơi nào
Biết ai mà hỏi lối vào đường ra?
Bàng hoàng phách nguyệt hồn hoa,
Thấy Thanh Y sứ đến mà hỏi han,
Tay cầm bảo cái cờ phan,
Hào quang sáng khắp mọi ngàn dưới trên.
Trình: “Có Diêm Vương lệnh truyền
Dạy mời đức Chúa về đền Phong Đô.”
Qua mười tám cửa ngục tù
Hỏi: “Đây là chốn ở đâu tên gì?”
Thưa rằng: “Địa phủ, Minh ty.”
Chúa mới ngẫm lại một khi sự lòng,
“Hẳn ta chẳng chịu lấy chồng,
Vua cha đem giết thác trong chốn này.”
Sứ rằng: “Chẳng phải vậy vay,
Mười vua Thập điện rước người xuống chơi.
Xin mời người hãy tới nơi,
Lại về dương thế rày mai chẳng chày.”
Chúa theo sứ giả liền đi,
Mười tám cửa ngục một khi tới gần.
Những quân canh ngục vui mừng,
Đầu trâu đón rước dăng dăng hai hàng.
Chúa trông vào chốn ngục đường,
Gió lạnh hơi thấu đến xương lạnh lùng.
Tối tăm ngày cũng mịt mùng
Quân tù eo óc, đứa trong, đứa ngoài.
Chúa mới hỏi sứ từng lời,
“Chẳng hay tội nghiệp những người làm sao?”
Thanh Y dẫn lại thấp cao
Tội gì cũng có xiết bao ngục tù.
Thanh Y Sứ là sử giả dẫn chúa Ba đi từ cửa ngục này qua cửa ngục khác, như vai trò của Thần tài của Minh Ty, còn các nhóm đầu trâu đứng hai hàng đón tại từng địa ngục như là Thổ địa của Địa Phủ.
Thanh Y Sứ làm theo lệnh của Thập Điện (Minh Vương), còn Đầu trâu là quân canh tại 18 cửa của 18 tầng địa ngục của Địa Phủ.
Trong kịch nghệ cổ, Thanh y là tên gọi chung cho các nhân vật có tính cách yểu điệu, trang nhã … mặc áo xanh (thanh y), trong các vai diễn thiên về hát, thoại lời theo vần điệu. Thanh Y thực chất người cốt tiên, người tiên.
Đầu trâu là người đầu trâu thân người, nghĩa là người cốt thú.
Mình người đầu thú là hình dáng của các vị thần Ai Cập, trong đó có
– Hathor, nữ thần tình yêu có hình người đầu bò.
– Amentet, con gái của Hathor là nữ thần phương Tây, nữ thần chết.
Chiêm tinh phương Tây cho rằng nữ thần tình yêu Venus đứng cung Kim Ngưu, có biểu tượng là đầu bò. Venus có tính kim thuỷ hay nước trời, Kim Ngưu có tính kim thổ, hay tính đất. Kết hợp lại là tính đất nước. Người Châu Âu còn cho rằng lục địa châu Âu được tạo nên từ con Kim Ngưu. Venus và Kim Ngưu là lưỡng nghi của nhau.
Hathor và Venus Kim Ngưu lại là lưỡng nghi của nhau, Hathor có tính mộc đất còn Venus và Kim Ngưu có tính kim đất.
Như vậy Diêm Vương vừa là Vua Địa Phủ, chủ của đầu trâu/người thú, đồng thời là Chúa Minh Ty, chúa của Thanh Y Sứ/người tiên.
ĐẦU TRÂU MẶT NGỰA TRONG SỰ TÍCH MẸ QUÁN ÂM NAM HẢI THEO LỜI KỂ CỦA THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH
Sự tích Mẹ Quán Âm Nam Hải theo lời kể của thiền sư Thích Nhất Hạnh viết về đoạn chúa Ba đi thăm địa ngục như sau :
“Bạch Hổ mang Chúa Ba vào rừng, lên núi rồi đi xa, rất xa, vượt biên giới nước Hưng Lâm và đi lên miền cao nguyên của một nước lạ. Tới một dãy núi, cọp đặt Công Chúa nằm xuống ở một cội cây rồi bỏ đi.
Chúa Ba thiêm thiếp, nằm mơ thấy mình tới cõi Âm. Nàng được hai tên quỷ sứ dẫn đi coi các cửa ngục dưới âm phủ và chứng kiến những hình phạt của các tội nhân. Những người này hồi còn sống trên dương gian đã làm nên nhiều tội ác nên nay xuống âm phủ bị quỷ sứ hành hình. Người nói dối thì bị kéo lưỡi; người sát nhân thì bị liệng vào rừng gươm giáo; người bất hiếu bị đội vòng lửa, người ích kỷ bị nhốt suốt ngày đêm trong một căn phòng u tối, người chế tạo buôn bán võ khí bị ôm những viên pháo nổ cho tan xương nát thịt; người tham lam bị buộc phải ăn những viên sắt nung đỏ; người tàn nhẫn bị ôm những cột đồng nóng bỏng, da thịt họ cháy xém, làm bay lên một mùi khét lẹt.
Chúa Ba nghĩ là mình đã chết và hiện hai tên quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa đang đưa mình tới một nơi nào dưới âm phủ. Tất cả những tên quỷ sứ dưới địa ngục đều có vẻ tàn ác; riêng hai tên quỷ sứ dẫn nàng đi thì lại rất lễ phép. Chúa Ba lên tiếng hỏi chúng để xem chúng đang dẫn nàng đi đâu. Một tên trả lời:
– Bạch Ni Cô, Ni Cô chưa chết đâu. Vua Diêm Vương muốn mời Ni Cô xuống thăm cõi Âm cho biết và luôn dịp để Vua được gặp gỡ Ni Cô. Chúng con đang đưa Ni Cô đến gặp ngài…
Một lát sau, Chúa Ba vào đến cung điện thâm nghiêm của Diêm Chúa. Ở đây mọi người đều lễ phép. Diêm Chúa tự thân ra cổng điện để đón Chúa Ba vào. Ông cũng biết chắp tay thành búp sen để chào Diệu Thiện. Vua cõi Âm mời Chúa Ba uống trà rồi truyền quân hầu đem lên dâng một trái đào. Trái đào được đặt trên một chiếc khay bằng ngọc. Vua ân cần mời Ni Cô ăn đào, nói rằng đó là một trái đào tiên, ăn vào thì phục hồi được sức khỏe.
Vua hỏi thăm Chúa Ba để biết nàng đã được đi xem qua những cảnh tượng địa ngục chưa. Nghe Vua hỏi, Diệu Thiện nhớ lại tất cả những cảnh tượng đau thương và hãi hùng mà nàng vừa thấy. Nàng thương xót đến chảy nước mắt. Ni Cô chắp tay nhắm đôi mắt lại và phát nguyện cứu độ cho mọi loài. Định lực của Công Chúa rất mạnh; tâm niệm của Công Chúa rất thành; khiến cho thế giới địa ngục rúng động. Tiếng kêu thương của chúng sanh tự nhiên bặt dứt. Diêm Chúa chắp tay khen ngợi:
– Đức từ bi của Ngài thật rộng lớn và mầu nhiệm. Những cảnh khổ dưới địa ngục đã giảm bớt rất nhiều nhờ tâm lực của Ngài. Thôi, quả nhân không dám giữ Ngài lâu. Xin cho người đưa Ngài trở về dương thế. Quả nhân tin chắc rằng Ngài sẽ tu hành rất tinh tiến và sẽ thành đạo ngay nội trong kiếp này.
Nói xong, Vua bảo hai tên quỷ sứ đưa Chúa Ba về trần.
Nhìn lại, Chúa Ba thấy hai tên quỷ sứ không còn là đầu trâu mặt ngựa nữa. Họ đã biến hình thành những người thường, mặt mũi hiền lành. Họ đưa Chúa Ba vượt qua mười cửa ngục. Tất cả những cảnh tượng não lòng mà Chúa thấy trước đây đã hoàn toàn biến mất. Địa ngục đã trở thành một nơi yên tĩnh và vắng vẻ.
Tới một cây cầu bắc ngang qua sông, hai người lính hầu chắp tay thưa với Chúa Ba rằng bên kia sông là dương trần và bà chỉ cần vượt qua cầu là tới. Họ được lệnh không được sang bên kia bờ. Chúa Ba cám ơn hai người rồi nhẹ bước lên cầu.
Tới giữa cầu nhìn xuống nước, Chúa thấy nước chảy xiết quá. Chóng mặt, Chúa sẩy chân rơi xuống sông. Vừa lúc ấy thì Chúa tỉnh dậy.”
Trong phiên bản của thiền sư Thích Nhất Hạnh, hai bên quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa (chứ không phải là Thanh Y Sứ) đưa Chúa Ba đi qua 10 cửa địa ngục (ứng với Thập điện, chứ không ứng với 18 tầng địa ngục).
– Quỷ sứ là quỷ giữ cổng xứ sở Diêm Vương, giống như là người canh cổng vậy. Nói cách khác quỷ sứ là Thổ địa ở xứ sở Diêm Vương. Quỷ sứ thổ địa đi theo 18 cửa của tầng địa ngục.
– Quỷ sứ đồng thời là một dạng sứ giả, mà có khả năng qua cổng để đi từ xứ này sang xứ khác bên trong xứ sở của Diêm Vương, ví dụ đi từ Điện này sang Điện khác của Thập Điện, nhưng quỷ sứ sẽ không được đi sang xứ sở khác của Ngọc Hoàng, Long Vương hay Tản Viên. Lúc này quỷ sứ giống như Thần tài của xứ sở Diêm Vương. Quỷ sứ thần tài đi theo 10 cửa của Thập điện.
Như vậy 2 quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa dẫn chúa Ba đi có thể là
– 1 quỷ đầu trâu & 1 quỷ mặt ngựa
– 2 quỷ vừa đầu trâu, vừa mặt ngựa
Truyện nói rất rõ là các quỷ sứ này vừa lễ phép vừa công tâm, làm đúng lệnh chủ ban và có thể biến hình thành người thường mặt mũi hiền lành, dễ chịu.
ĐẦU TRÂU
Đứng đầu và lãnh đạo bọn đầu trâu chính là con trâu đầu đàn : Ngưu Ma Vương.
Ngưu Ma Vương chính là Ma Vương, thần của thế giới âm.
MÃ & MẶT NGỰA
Theo lời kể của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, sau khi đi thăm Địa Ngục công chúa Ba gặp hoàng tử Đại Việt Lý Phật Mã (con trai đức vua Lý Thái Tổ) cưỡi ngựa hồng. Đoạn này như sau
“Ni cô Diệu Thiện tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trên núi, trong một bóng cây, hai tay bị trói sau lưng. Nàng nhớ lại những gì đã xẩy ra cho mình. Lính của Vua Cha tới đốt chùa. Mình bị Vua cha đem ra xử chém. Cọp trắng nhảy vào pháp trường mang mình đi. Mình ngất đi trên lưng cọp. Rồi mình nằm mơ thấy xuống thăm cõi Âm. Đây là đâu? Công Chúa tự hỏi. Có thể là cọp trắng đã đem mình lên đây. Chúa cảm thấy dây trói hai tay mình rất lỏng lẻo. Không nỡ để nàng bị đau, người lính đã chỉ quấn dây quanh hai cổ tay nàng cho có lệ. Lần gỡ một hồi, Ni sư Diệu Thiện tháo được tay ra. Vừa lúc ấy có nhạc ngựa văng vẳng. Ni sư vừa đứng được dậy thì trước mặt cô xuất hiện một người trai trẻ dung mạo khôi ngô, tay cầm cương ngựa, theo sau là một con ngựa hồng. Người đó cúi đầu chào. Công Chúa chắp hai tay đáp lễ. Người đó hỏi thăm Công Chúa là ai, tại sao lại đứng một mình trên chốn núi non quạnh quẽ này.
Công Chúa Diệu Thiện kể cho người kia nghe về thân thế mình. Người trai trẻ nói cho Công Chúa biết là hiện Công Chúa đang ở trong địa phận nước Đại Việt trên dãy núi Tam Đảo thuộc địa phận tỉnh Sơn La. Người đang nói chuyện với Công Chúa là Hoàng Tử nước Đại Việt tên là Lý Phật Mã, đang một mình một ngựa dạo chơi những nơi non nước thanh tú của quê hương chàng. Nghe chuyện Công Chúa, Hoàng Tử rất lấy làm thương cảm. Tuy đã xuất gia và ăn mặc nâu sồng, Công Chúa vẫn đẹp như hồ sen một buổi sớm mai. Hoàng Tử cầu hôn với Công Chúa, nói rằng nếu Công Chúa bằng lòng, chàng sẽ đưa Công Chúa về thành Thăng Long để trình với phụ vương là Vua Lý Thái Tổ. Chúa Ba thưa với Hoàng Tử Đại Việt là nàng đã nhất quyết muốn sống cuộc đời xuất gia rồi. Thái Tử Phật Mã cũng là người Phật tử nên hiểu ngay và rất kính trọng chí nguyện xuất gia của Chúa. Chàng nói:
– Vậy thì xin Công Chúa ở lại nước Đại Việt mà tu hành cho tới khi thành đạo, đừng có trở về bên quý quốc mà gặp hiểm nguy. Cách đây chừng mấy ngày đường, có một động đá rất đẹp, gọi là Động Hương Tích. Nếu Công Chúa bằng lòng, tôi sẽ đưa Công Chúa về đó để mà ẩn tu. Động Hương Tích thuộc về địa phận Làng Dục Khê, ở phủ Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông. Tôi đã tới đấy hai lần và thấy chốn đó là một nơi tu hành rất thuận lợi.
Thái Tử Phật Mã nhường ngựa cho Chúa Ba ngồi. Chàng cầm cương dắt ngựa đi mãi, đi mãi; ba ngày sau thì tới được sơn phận Làng Dục Khê.
Tới đây, Thái Tử buộc ngựa, thuê một chiếc thuyền nan, rồi mời Chúa Ba xuống thuyền. Chàng tự tay chèo thuyền đưa Chúa Ba đi. Con sông chảy quanh co giữa hai bờ núi. Cảnh tượng thật là mầu nhiệm. Từ màu trời, sắc nước cho đến hình cỏ bóng cây, nơi nào cũng đẹp. Thái Tử chỉ cho Chúa Ba xem một ngọn núi trông giống như một con voi phục. Chúa Ba thấy như voi đang đưa cái vòi của nó chúc xuống ruộng lúa. Bên đầu voi, rõ ràng là có một cái tai voi. Lên bờ, Thái Tử đưa Chúa Ba leo núi đi lên động Hương Tích. Hai người trèo tới xế chiều thì vào tới cửa động. Tới đây, Thái Tử xin phép trở về Xóm Dục Khê kẻo trời tối. Sáng mai chàng phải lấy ngựa về kinh đô cho kịp hẹn với phụ vương.”
Đoạn truyện này cho biết rằng chúa Ba gặp Diêm Vương ở dãy núi Tam Đảo thuộc địa phận tỉnh Sơn La. Phù Đổng Thiên Vương, chính là hiện thân của Diêm Vương, đã bay lên trời hoá Thánh ở núi Sóc, phía Nam của dãy núi Tam Đảo. Vậy
– Sơn La, phía Bắc của dãy núi Tam Đảo là cổng đất của Địa Phủ
– Núi Sóc, phía Nam của dãy núi Tam Đảo là cổng trời của Minh Ty
Chúa Ba đã dời núi Tam Đảo sang Hương Sơn trên lưng ngựa hồng của Lý Phật Mã.
– Chúa Ba cưỡi ngựa hồng,
– Tên Lý Phật Mã nghĩa là ngựa Phật, ngựa vàng, mã hoàng hay vàng mã.
Vì Tam Đảo và Hương Sơn nằm ở hai bên của sông Hồng, nếu chỉ đi ngựa thường thì không thể đi qua sông được, nhưng truyện chỉ nói về việc thuê thuyền đi bến Đục để vào Hương Sơn thôi, chứ không nói rõ ngựa hồng và ngựa vàng đã qua sông Hồng cách nào.
Vẫn liên quan đến mã :
– Cửa Đông của kinh thành Thăng Long nằm cửa sông Tô Lịch/sông Hồng có đền Bạch Mã
– Ngay gần đó có phố Hàng Mã bán vàng mã và phố Mã Mây.
Có thể nói cửa Đông chính là mặt ngựa của kinh thành Thăng Long. Có một khả năng là Lý Phật Tử dẫn chúa Ba đi lối này để sang sông, vì chỉ ở đây mới có bến thuyền lớn chở được ngựa.
Theo lời kể của thày Thích Nhất Hạnh, người gặp Chúa Ba sau khi bà rơi ra khỏi cầu là Lý Phật Mã và bà dùng ngựa hồng của hoàng tử để đi. Chính Lý Phật Mã chỉ cho bà về động Hương Tích và trực tiếp dẫn bà qua đó.
Theo Tích Ca, người gặp Chúa Ba sau khi bà đi qua cầu Nại Hà là Phật Tổ Thích Ca. Biểu tượng của Phật Thích Ca là Bạch Mã. Chính Phật Tổ đã chỉ cho bà về động Hương Tích.
Như vậy trong cả hai lời kể, chúa Ba đều được mác chỉ dẫn và đưa về Hương Tích.
Mã cũng có nghĩa là mật mã hay chìa khóa. Hương Tích là nơi chúa Ba từ hành đắc đạo thành Phật.