CÂY LƯƠNG THỰC

Loading

Bộ cây lương thực có thể được hiểu là những loại cây mà có thể ăn để sống.
Cây lương thực chia làm hai nhóm chính theo tính chất của lương thực
– Cây cho tinh bột có tính đất
– Cây cho sữa có tính nước
Riêng lúa là cây cho cả hai
Cây lương thực chia hai nhóm theo môi trường sống
– Cây sống trên cạn
– Cây thuỷ sinh
Riêng lúa sống được trong cả hai môi trường.
– Cây lương thực ăn hạt (ngũ cốc) :
– – – cây lúa – hạt thóc.
– – – cây đậu – hạt đỗ
– – – cây ngô – hạt ngô
– – – cây kê – hạt kê
– Cây lương thực ăn củ
– – – cây khoai – củ khoai
– – – cây môn – củ khoai
– – – cây mùng – củ khoai
– – – cây ráy – củ khoai
– – – cây sắn – củ sắn
– – – cây dong – củ dong
– – – cây sâm – củ sâm
– Cây lương thực ăn quả
– – – cây chuối – qủa chuối
– – – cây dừa – quả dừa
– Cây lương thực thuỷ sinh
– – – cây ấu – qủa/củ ấu
– – – cây lúa – hạt thóc, hạt gạo
Gốc của cây lương thực đều là các cây trong rừng và thường là một bộ cây lương thực cùng nhóm sẽ có chung cây gốc. Cây lúa gốc là cây tổ của các cây lương thực.
SỰ TÍCH CÂY LÚA
Tục truyền ngày xưa khi vua Hùng mới dựng nước, ven các con sông Thao, sông Đà, sông Lô đất đai màu mỡ, cây cối tốt tươi. Cư dân Văn Lang vẽ chàm vào người xuống đồng bắt cá về ăn. Vùng đồng kẻ Gáp, kẻ Vầy cá nhiều vô kể, ăn cá mãi cũng chán. Các cụ già làng thường thấy trên những bãi bồi hàng năm nở lên những vạt cây tốt nhanh, lá giống lá mía, thân như thân lau, nở từng bụi sum suê, bông trĩu, quả to, có quả như cái thuyền con, khi quả chín rụng xuống đất, chim sóc cứ mổ mà ăn không xuể.
Các già làng liền rủ nhau lấy rìu bổ ăn thử, ăn vào đến đâu thấy dễ chịu đến đấy, nếu đem cho vào ống nứa đốt như nấu khoai mài, ăn thấy càng thơm ngon. Thấy vậy, dân làng rủ nhau đi nhặt về để dành ăn vào mùa đông rét mướt.
Nhưng có năm cây vẫn tốt, lúc ra hoa trời nắng bông lại lép kẹp, bông thì to nhưng cứ giơ thẳng lên trời như những mũi mác, cả làng cả bản tha hồ đốt cây trầm hương gọi là vía, gọi hồn hạt cũng không to, bông vàng không trĩu xuống.
Vua Hùng thấy vậy, cùng các già làng tìm một ngọn núi cao im lặng trèo lên trên đỉnh, đốt hương khấn vái bốn phương mong Long Quân về phù hộ. Vua Hùng cùng các già làng cầu khấn mãi từ sáng đến hết đêm. Sáng hôm sau, bỗng nhiên trời nổi sấm sét, mưa từ đâu như trút nước xuống, rồi từ trong đám mưa có vị thần nói to lên rằng: “Từ nay trở đi cứ sáng mồng một Tết, nhà nào cũng phải quét sạch nhà cửa cổng ngõ sân bãi đến giờ “dần” sẽ có lúa thần về mới được ăn, bằng trái ý là lúa bay đi”.
Tan cơn mưa, vua Hùng và các già làng như tỉnh giấc mộng, nhìn thấy ngay trước mắt mình một hạt lúa thần thật to bằng chiếc thuyền con.
Từ đó về sau năm nào cũng vậy, cứ khoảng tháng bảy, tháng tám khi nước các con sông rút đi là tất cả cư dân Văn Lang, cùng với vua Hùng nghe theo lời thần dạy, ra những bãi bồi ven sông cày bừa vun xới, chăm chút nâng niu những cây lúa thần. Từ đấy năm nào lúa cũng về đều đặn, dân cư no lành, vui mừng ca hát, nhảy múa. Nhưng bỗng một năm có hai vợ chồng nhà quan lang còn trẻ, chị vợ ngủ trưa, khi mở mắt ra những tia sáng của thần trời đã le lói chiếu qua khe liếp nhà, mới vội vàng cầm chổi đi quét sân. Chị vợ đang quét thì lúa tới giờ đã lăn từ ngoài bãi bồi lăn về. Hạt lúa thật to, thật đẹp, nhưng cổng nhà rác quá, lúa không vào được, chị vợ sợ chồng mắng mới quay ra mắng lúa:
“Lúa gì mà chưa đến giờ đã mò về”.
Lúa giận rồi bỏ đi. Trước khi đi, lúa còn bảo: “Nhà chị lười quá, từ nay cứ lấy ngoèo tre, lưỡi sắt cắt từng bông chứ đừng hòng ta lăn về cho mà ăn nữa”.
Chị vợ hối hận chạy theo van nài, nói thế nào cũng không được. Lúa thần bay đi, cư dân Văn Lang lại lao đao vì thiếu cái ăn. Vua Hùng lại phải cùng các già làng lên đỉnh núi cầu khấn trời đất, thắp hương suốt ngày đêm, gọi vía lúa, lúa thần vẫn không về. Còn những cây lúa hằng năm vẫn chăm sóc ở bãi bồi ven sông thì lá bé đi, bông nhỏ lại chỉ bằng phần nghìn, phần vạn hạt lúa thần và phải lấy cái ngoèo tre, đóng một miếng sắt (gọi là liềm) đi cắt từng bông một mang về.
Từ đó, hằng năm cứ sắp đến mùa lúa nở, cư dân Văn Lang và vua Hùng lại cầu khấn thần lúa. Và mỗi khi nước sông rút đi, lại ra sức chăm sóc những cây lúa ven sông rồi mang ngoèo tre, lưỡi sắt đi cắt từng bông lúa mang về.
TỤC THỜ LÚA
Tục thờ lúa của người Việt trên vùng Đất Tổ
– Thờ hạt lúa thần tại Đền Thượng (Khu Di tích lịch sử Đền Hùng): Tương truyền từ trước Cách mạng tháng 8-1945, tại Đền Thượng vẫn còn thờ hạt lúa thần. Hạt lúa được làm bằng gỗ đục cả cây, sơn son thiếp vàng, có kích thước rất lớn (to bằng chiếc thuyền 3 cắng mà người dân ở Phú Thọ thường dùng đi thả lưới đánh bắt cá trên các hồ, đầm). Theo truyền ngôn kể lại: hàng năm, các Vua Hùng đều lên Đền Thượng để cầu cúng và gọi vía lúa:
“Hú ông lúa, bà lúa
Cỏ lên, cỏ úa
Lúa lên, lúa xanh
Tốt hơn xung quanh
Tốt hơn láng giềng
Cao lên bằng cổ
Trổ lên bằng đầu
Bông như đuôi trâu
Bông như đuôi nghé
Bông nào be bé
Cũng bằng đuôi voi
Bông nào loi thoi
Cũng bằng đuôi ngựa
Hạt nào rụng rựa
Cũng bằng bình vôi
Ba con gà lôi
Cũng không lôi nổi…”
Lễ tế “Hạt Lúa Thần” được diễn ra vào ngày mồng 1 tháng Giêng và ngày mồng 10 tháng 10 Âm lịch hàng năm. Lễ vật dâng tế gồm: bánh chưng, bánh dầy, xôi màu, ngũ quả, hương hoa, trầu cau, nước và muối trắng.
Tế “Hạt Lúa Thần” để xin “Thần Lúa” luôn ở lại với con người; không “tức giận bỏ đi” để con người đỡ phải làm lụng vất vả mà vẫn có đủ lúa gạo để duy trì cuộc sống sinh tồn ổn định và phát triển. Trong bài cúng “Hạt Lúa Thần”, ông từ gọi Thần Lúa ban cho mùa màng tốt tươi; gọi ông trời (Kính Thiên) luôn cho mưa thuận gió hòa; cầu Tổ Tiên (các Vua Hùng) phù hộ cho một mùa màng tươi tốt, bội thu.
Tục này được coi là một nét đẹp trong tín ngưỡng của người Việt, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam.
– Tục rước Lúa thần ở Tứ Xã: Sáng ngày 12 tháng Giêng năm Âm lịch hàng năm, nghĩa là sau khi Lễ Mật diễn ra lúc nửa đêm ngày 11 tháng Giêng, người xóm Trám (xã Tứ Xã) tổ chức rước Lúa thần. Với ước vọng cầu mong cho mùa màng tốt tươi, người người no đủ; bó lúa rước được gia đình chủ tế chọn lựa phải là những khóm lúa tốt tươi, dài bông, mẩy hột từ đợt thu hoạch vụ mùa năm trước. Cụm lúa được cắm vào bình cùng 1 ngọn mía (tượng trưng cho Lúa thần).
Trước khi rước, “Lúa thần” được đưa vào Miếu Trám, ông từ làm lễ rồi dân làng đặt bình lúa lên kiệu, rước qua những cánh đồng, vòng quanh làng rồi lại đưa trở về thờ tại Miếu.
– Lễ hạ điền: Được tổ chức vào ngày 25 tháng 5 Âm lịch hàng năm tại thôn Cổ Tích, xã Hy Cương. Theo lệ này, trai làng từ 12 đến 19 tuổi đều phải làm lễ mặn hoặc lễ ngọt tế thần Thành hoàng và Vua Tổ Thần Nông (người Việt cổ tôn vinh Vua Hùng là con cháu Thần Nông). Riêng các trai làng mới lớn vừa đủ 12 tuổi phải sắm cả lễ mặn và lễ ngọt để dâng cúng.
Tất cả các lễ vật sau khi được rước ra đình làng (đình Cả) được ông từ và ông “Chúa đồng” rước lên long sàng; thắp hương cúng bái. Các quan viên, bô lão cùng tất cả nam nhi, phụ ấu đứng thành hàng ở phía sau và hai gian bên phải, bên trái cùng nhau lễ vái.
Chúa đồng là nhân vật quan trọng nhất của buổi lễ hạ điền, được dân làng chọn lựa thường là một vị cao niên, đẹp lão, khỏe mạnh, am hiểu đồng đất, thạo nghề nông nghiệp, gia đình có đông con dài lũ, hòa thuận, không có tang gia; chấp hành tốt hương ước của làng… Họ tin rằng với sự “viên mãn” đó, Chúa đồng sẽ hóa thân vào cây lúa, truyền cho lúa sức mạnh sinh sôi, mùa màng bội thu, nhà nhà no đủ.
Lễ hạ điền thực chất là lễ trình nghề trồng lúa nước, được thiêng hóa nhằm cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng phát triển, con người khỏe mạnh, giỏi việc nông trang, an khang hạnh phúc. Thông qua lễ hội, tính cộng đồng của dân tộc được phát huy, tạo nền tảng gắn bó, đoàn kết.
– Lễ Tịch điền làng Minh Nông: còn gọi là lễ hội Vua Hùng dạy dân cấy lúa; được tiến hành vào ngày mồng 6 tháng Giêng năm Âm lịch hàng năm tại cánh đồng làng Lú – xã Minh Nông – thành phố Việt Trì.
Theo tục lệ, giống như lễ hạ điền, dân làng đặt ra các tiêu chuẩn kỹ càng để chọn được người chủ tế đồng thời là chủ đồng điền (chủ ruộng đồng). Đó là một cụ cao niên, đẹp lão, khỏe mạnh, thạo nghề nông tang, gia đình song toàn, hạnh phúc. Dân làng cùng chủ tế đến trước Đàn Tịch điền để tế Thần Nông, cầu mong Thần Nông và Vua Hùng âm phù dương trợ cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng tốt tươi, dân khang vật thịnh.
Tế xong thì làm lễ xuống đồng. Ông chủ tế kiêm chủ đồng điền khoác lên mình tấm áo choàng màu vàng hoặc màu đỏ sậm để nhập vai Vua Hùng cùng các quan viên, hội đồng kỳ mục và đông đảo dân làng ra ruộng cấy lúa. “Vua Hùng” lội xuống ruộng, cầm mạ, cấy trước; quan viên và dân làng cấy theo; cho tới khi nao cấy hết 3 bó mạ mới thôi.
Nội dung Lễ tịch điền nhằm diễn lại tích xưa: Vua Hùng dạy dân cấy lúa; đồng thời cũng là sự mong muốn người người thạo việc, nông trang đồng điền; trị thủy sông, trồng lúa nước, đem lại cuộc sống yên bình, hạnh phúc.
– Tục thờ bánh chưng, bánh dầy:
Vua Hùng thứ 6 – Hùng Huy Vương dẹp xong giặc Ân xâm lược. Tuổi đã cao muốn nhường ngôi cho con. Vua xuống chiếu: “Mỗi người con hãy sắm một lễ vật quý để dâng Tổ tiên. Lễ vật của người nào có ý nghĩa, tỏ lòng tôn kính, hiếu thảo và gìn giữ được sự nghiệp của ông cha thì Vua sẽ truyền cho ngôi báu”.
Tất thảy cả 20 người con trai; ai cũng đi khắp nơi tìm lễ vật, sơn hào hải vị, của lạ, vật ngon để dâng lên vua cha. Trong số những người con ấy, chàng Lang Liêu khai khẩn đất Hương Trầm (Dữu Lâu – Việt Trì), trồng lúa, nên nghèo khó hơn, không làm được việc tìm kiếm như những người anh em khác; Do đức tính hiền lành nên chàng được bà Tiên giúp đỡ, mách bảo: “Vật nào nuôi sống con người là vật quý nhất trong trời tròn, đất vuông này”.
Nhờ vậy, Lang Liêu đã tự mình lấy gạo nếp thơm làm ra những chiếc bánh hình vuông, gói bằng lá dong xanh, ở giữa có nhân hành, thịt mỡ, đỗ xanh và những chiếc bánh nặn hình tròn do lấy gạo nếp nấu chín rồi giã mịn.
Khi dâng lên, Vua Hùng khen: “Bánh thì ngon – ý thì hay”… và đặt tên cho loại bánh hình vuông là bánh chưng, bánh hình tròn là bánh dầy; rồi quyết định nhường ngôi cho Lang Liêu.
Từ cổ xưa đến ngày nay, lễ vật thờ cúng Vua Hùng tại các đình đền và lễ vật thờ Tổ tiên, gia tộc trong ngày tết ở mỗi gia đình đều phải có bánh chưng và bánh giầy.
Bánh chưng và bánh dầy đã trở thành hèm tục cầu cúng các Vua Hùng của người Việt ở khắp mọi miền đất nước.
Chia sẻ:
Scroll to Top