Lạc là cây họ đậu và như tất cả các cây họ đậu, là cây âm dương
– Lạc là tên dương, dành cho cây (cấu trúc), củ và hạt
– Đậu phộng hay đậu phụng là tên âm dành cho cây (vận hành), hoa, quả, với nghĩa là đậu chim phượng hay chim phượng đậu (trên cây lạc)
Ở Trung Quốc, cây này được gọi là Lạc Hoa Sinh, nghĩa là của sinh ra từ hoa.
Lạc có tên tiếng Anh là Peanuts, nghĩa là hạt của cây đậu.
Lạc còn có tên là Earthnut, Ground Nut, nghĩa là hat của đất vì quả lạc thay vì chín trên tán cây dưới ánh nắng măt trời, thì chín trong lòng đất, nhờ lửa đất.
Danh pháp khoa học là Arachis hypogea L., thuộc họ Đậu – Fabaceae. Tên Hypogea có nghĩa là quả ở trong đất vì quả được hình thành và chín trong đất.
—o—o—o—
CÂY LẠC – CẤU TRÚC
– THÂN : Cây lạc là cây thuộc nhóm cây hai lá mầm, cây thảo, sống hàng năm, mọc thành khóm nhưng cũng có khi mọc bò sát đất. Thân phân nhánh từ gốc, cành tỏa rộng, có ít lông, bén rễ ở các mấu.
– LÁ : Lá mọc theo cụm bốn
– HOA : Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành chùm, có 2 -4 hoa nhỏ, màu vàng; lá bắc nhỏ; dài chia 2 môi, môi trên có 4 răng ngắn, môi dưới chỉ có 1 răng; tràng gồm cánh cờ lõm, cánh bên không bằng nhau, cánh thìa hẹp, cong: nhị 9 dính nhau thành một bó; bầu ngắn có 1 – 3 noãn.
– RỄ : Rễ cọc, có nhiều rễ phụ. Đại bộ phận rễ con phân bố ở tầng đất mặt. Trên rễ hình thành những nốt sần là kết quả cộng sinh với vi khuẩn cố định đạm (rhizobium), cho nên rễ có khả năng lấy khí nitơ (N2) trong không khí và chuyển hóa nó thành các dạng chất mà cây có thể hấp thụ được (NO3 hay NH3).
– CỦ LẠC hay QUẢ LẠC : Quả lạc thường được gọi là củ lạc. Bình thường củ sinh ra từ rễ và củ không có hạt, còn quả sinh ra từ hoa phải ở trên tán cây và quả có hạt. Quả lạc là một quả đậu bình thường, được sinh từ hoa trên cành và bên trong quả chứa hạt lạc, nhưng quả được lớn lên trong đất, chín trong đất nên được gọi là củ lạc.
Lạc có thể coi là một loài cây vô cùng kỳ lạ,
– Rễ cọc nhưng lại lấy đam từ trên trời
– Hoa đậu quả và quả chín dưới lòng đất thay vì trên tán cây, trên trời
Vì các đặc điểm trên, lạc là cây cực lạc, cây lạc loài, cây lạc đường, cây lạc trôi, cây lạc quan. Lạc loài như vậy nhưng cây lạc vẫn sống khoẻ, sống tốt trên toàn thế giới.
—o—o—o—
VÒNG ĐỜI
Thời kỳ nảy mầm: Trong điều kiện nhiệt độ, ẩm độ phù hợp lạc có thể nẩy mầm nhanh chóng sau khoảng 3 – 5 ngày.
Thời kỳ cây con: Thời kỳ này bắt đầu từ hình thành lá mầm đầu tiên cho đến thời điểm cây lạc bắt đầu ra hoa. Đây là thời kỳ cây lạc phát triển chiều cao và phân cành. Khi cây con có ba lá mầm thì từ nách của hai lá mầm cho ra cặp cành thứ nhất. Khi cây con có năm lá thì từ cặp cành thứ nhất cho ra bốn cặp cành phụ cấp hai và từ thân mọc ra cành thứ ba và thứ tư. Tuy nhiên, hiệu quả đậu củ của những cành cấp 1, 2 là cao hơn nhiều các cành ra sau.
Thời kỳ ra hoa và tia củ: Khoảng 30 – 40 ngày sau khi trồng thì hoa bắt đầu xuất hiện (tùy thuộc vào nhiệt độ và giống). Hoa hình thành từ trong gốc ra phía ngoài và lần lượt từ các cành cấp 1, 2 và các cấp cành sau đó. Khi quá trình tự thụ phấn kết thúc các cánh hoa tự rụng. Đầu vòi nhụy kéo dài hình thành tia củ phát triển hướng đất để hình thành củ. Quá trình này kéo dài khoảng 5 – 7 ngày sau khi hoa tự thụ phấn xong.
Thời kỳ củ phát triển và thu hoạch: Khi củ hình thành (khoảng 7 ngày sau khi tia củ đâm vào đất) và phát triển thì cây vẫn ra hoa tiếp nhưng cây thì sinh trưởng chậm lại, bắt đầu xuất hiện vàng lá kéo dài cho đến thu hoạch. Hoa lạc ra không đều nên củ cũng chín với thời gian khác nhau. Vỏ lạc và nhân phát triển và trưởng thành trong khoảng thời gian từ 60 đến 70 ngày tiếp theo khi đâm vào đất.
Hình dung ra cây lạc cổ, cây lạc dại ngày xưa mọc tự nhiên ngoài bãi bồi không thể có vòng đời đứt đoạn như vậy, mà khi cây lạc sau khi ra hoa, kết quả lụi đi, thì củ lạc sẽ được bảo vệ trong vỏ và ẩn dưới đất, đợi đến lúc phù hợp thì nảy mầm, giống như cây cỏ lạc vậy. Như vậy vòng đời thực sự của cây lạc là lâu năm với chu kỳ tuần hoàn là khoảng nửa năm hoặc một năm .
—o—o—o—
CÔNG DỤNG
Lạc thuộc nhóm cây ngũ cốc (cây lương thực cho hạt) như lúa, ngô, kê, lạc, vừng, đỗ. Lạc có nhiều cách chế biến như
– Xôi lạc
– Cơm nếp lạc
– Canh lạc :
– – – vị ngọt mát nấu với rau củ qủa và hạt khác như rau muống, bí xanh, rau cải, mướp, rau đay, hạt sen …
Lạc cũng hạt cho dầu. Bã lạc sau khi ép, gọi là bánh dầu dùng để làm thức ăn gia súc, bón phân cho đất và trộn với tỷ lệ nhỏ thành thức ăn.
Thân cây lạc tươi có thể dùng làm phân bón cho đất hoặc làm thức ăn gia súc.
Lạc được trồng khắp thế giới, nhưng là một trong những loại hạt gây dị ứng ở một số người khi ăn dạng hạt hoặc dạng dầu.
—o—o—o—
SÂU BỆNH
– NẤM : Ở thời kỳ nảy mầm và cây con, một tập đoàn nấm đất như Aspergillus, Rhizoctonia, Pythium, và các loài Fusarium có thể tấn công hạt giống hoặc cây con gây hiện tượng héo rũ (chết ẻo). Ở giai đoạn này còn có vi khuẩn (Ralstonia solanacearum) gây bệnh héo xanh vi khuẩn. Các thời kỳ sinh trưởng và phát triển sau đó có các bệnh đốm đen lá (Cercospora personata), bệnh đốm nâu lá (Cercospora arachidicola), gỉ sắt (Puccinia arachidis), thối gốc – héo rũ gốc mốc trắng – (Sclerotium rolfsii ), … Từ thời kỳ hình thành củ cho đến thu hoạch có ba loài nấm phổ nhất liên quan đến thối củ là Pythium sp., Rhizoctonia solani, Sclerotium rolfsii.
– CÔN TRÙNG : Khi mới gieo lạc thường bị kiến, dế hại. Khi cây con mới mọc thường bị sâu xám (Agrotis sp.) gây hại. Những giai đoạn sinh trưởng, phát triển sau đó cây lạc thường có các loại chích hút (bọ trĩ, rầy, rệp, nhện đỏ) và các loại miệng nhai (sâu khoang, sâu xanh, sâu đo, châu chấu,…) xuất hiện gây hại.
—o—o—o—-
CÁC GIỐNG LẠC
Cây lạc trồng có các giống cho hạt lạc có đến màu và kích thước khác nhau
– Lạc ta đỏ, lạc sẻ đỏ, lạc ri hạt nhỏ màu đỏ tươi, đỏ đậm
– Lạc hạt to màu đỏ, thường là lạc lai
– Lạc ta hồng, lạc sẻ hồng, còn gọi là lạc hồng, lạc trắng cho hạt lạc nhỏ màu hồng hoặc hồng vàng
– Lạc hạt to màu hồng hay hồng vàng, thường là lạc lai
– Lạc hạt nhỏ màu đen
– Lạc hạt to màu đen, thường là lạc lai
– Lạc hoa mèo hoặc lạc vằn có hạt vằn tím trắng hồng (nhiều trắng) hoặc tím đậm (nhiều tím) hoặc tím vừa
CÁC VÙNG TRỒNG LẠC
Các vùng trồng lạc nổi tiếng
– Lạc đỏ (lạc ri) Lục Yên, Yên Bái
Lạc nổi tiếng nhất là lạc đỏ Lục Yên, Yên Bái gọi là lạc ri. Cứ khoảng tháng 1 – 2 và tháng 7 – 8 hàng năm, người dân tộc Tày tận dụng những thửa ruộng nương, vườn, đất soi bãi ven hồ Thác Bà và sông Chảy để trồng lạc đỏ. Tùy theo mùa vụ, sau khoảng từ 110 – 130 ngày, lạc được đồng bào dân tộc nhổ đem về tách củ hoặc tách hạt phơi khô, tích trữ dùng để ăn dần quanh năm và lưu giữ trồng vụ sau.
– Lạc đỏ làng Keo, Thái Bình
Lạc đỏ làng Keo (xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, Thái Bình) nổi tiếng với chất lượng cao, hạt lạc căng mẩy, đỏ bóng, thơm nồng, bùi ngậy. Làng Keo là cái nôm của làng Dũng Nhuệ xưa, nay gồm 3 thôn Hành Dũng Nghĩa, Dũng Nghĩa, Dũng Nhuệ (xã Duy Nhất). Làng có đặc thù đồng đất chua trũng và đất bãi bồi sông Hồng phù hợp với trồng lạc. Cứ cuối tháng Chạp, đầu tháng Giêng, thay vì cấy lúa xuân, trên vùng đất bãi, bà con làng Keo bắt đầu tiến hành làm đất, gieo trồng lạc. Giống lạc ở đây là giống lạc đỏ truyền thống, bà con tự chọn lọc, để giống từ năm này qua năm khác. Chất đất phù sa nhiều dinh dưỡng nên cây lạc hầu như không cần bón thêm phân, việc chăm sóc cây lạc nhàn hơn cây lúa, chủ yếu xới xáo, vun gốc, nhặt cỏ.
– Lạc đen Mường Khương, Lào Cai, Tây Bắc
– Lạc hoa mèo là giống lạc của người dân tộc Pa Dí – Lào Cai – Tây Bắc. Lạc có những đường vằn bắt mắt ở lớp vỏ dày, hạt có nhiều sọc tím, đỏ trắng rất đẹp mắt và có vị đậm đà, khác biệt với các loại lạc thông thường. Lạc hoa vằn chỉ mọc được ở vùng núi cao với khí hậu mát mẻ của núi rừng Tây Bắc.
Ca dao còn nhắc đến các địa danh trồng lạc ở miền trung
– Hà Nhung : Một làng thuộc huyện Bình Khê, nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.
Khoai lang Đồng Phó
Đậu phộng Hà Nhung
Chàng bòn, thiếp mót, đổ chung một gùi
Chẳng qua duyên nợ sụt sùi
Chàng giận, chàng đá cái gùi lăn đi
Chim kêu dưới suối Từ Bi
Nghĩa nhân còn bỏ, huống chi cái gùi!
– Hòn Vung : Một tên khác của thôn Phước Hậu, xã An Hiệp, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Tại đây trồng nhiều đậu phộng.
Khoai lang Suối Mít
Đậu phụng Hòn Vung
Chàng đào thiếp mót đổ chung một gùi
Bây giờ nhân nghĩa sụt sùi
Lấy chân đá hất cái gùi lăn chiêng
– Hòn Dung : Tên một hòn đảo nhỏ ngoài khơi biển Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà
Khoai lang hòn Chúa
Đậu phụng hòn Dung
Chồng đào vợ mót đổ chung một gùi.
—o—o—o—
CÁC CÂY TÊN LẠC
– Lạc trồng hay lạc đất (cho hạt lạc) là cây ngắn ngày
– Lạc dại hay cỏ lạc, là cây lâu năm, hoa và cây đều rất giống cây lạc trồng.
– Lạc tiên, còn gọi là dây chùm bao, dây nhãn lồng, cũng là cây dại lâu năm
– Lạc thần, còn có tên khác là bụp giấm, bụt giấm, đay Nhật, có hoa dùng làm trà gọi là trà hoa lạc thần có vị hơi chua, mùi thơm nhẹ, tính mát.
– Lục lạc : cây có nhiều giống và nhiều tên gọi như lục lạc ba lá tròn (muồng tía, muồng ba lá tròn), lục lạc từ (sục sạc lõm, muồng một lá)
– Lạc mất hay lạt mất là cây thân gỗ thẳng thường được dùng làm thân trụ cho cây tiêu và gỗ dùng được nhiều việc, hoa nở ra là bay mất, có thể vì như vậy nên tên là cây lạc mất
Các cây tên lạc dường như rất thú vị,
– Cặp đôi lạc thần và lạc tiên.
– Cặp đôi lạc dại và lạc trồng. Lạc trồng có khôn hơn lạc dại không thì không biết. Trong khi cây cỏ lạc bò lan sát đất hơn cây lạc trồng, thì hoa của lạc dại lại hướng lên trời, ở vị trí cao hơn so với tán lá, ngược hẳn với cây lạc trồng có hoa mọc ở cành thấp, chúc xuống đất để sinh củ trong đất.
– Lạc trồng và lạc dại đều là cây bốn lá, trong khi lục lạc là cây muồng có loại ba lá, loại một lá
– Tất cả các cây lạc như lạc dại, lạc trồng, lạc tiên, lạc thần, lục lạc… đều là cây bụi, riêng lạc mất là cây thân gỗ mọc thẳng đứng lên trời thả hoa lạc trôi theo gió ở tầm cao.
—o—o—o—
TÊN LẠC & DÂN TỘC VIỆT
Lạc là tên gắn với nguồn gốc theo huyền sử của dân tộc Việt.
– Người cha của dân tộc Việt là Lạc Long Quân, như vậy có thể coi Lạc là họ của người Việt theo cha.
– Dòng máu Bách Việt được gọi là dòng máu Lạc Hồng
– Các nhóm Bách Việt ban đầu được gọi là Bộ Lạc.
– Con chim trên trống đồng thời Hùng Vương của người Việt gọi là Chim Lạc. Con cháu Bách Việt bay đi khắp nơi nhưng vẫn theo vòng xoay mặt trời trên trống đồng gọi là đàn chim Việt, hay đàn chim Lạc
– Đường vận hành của các bộ lạc Việt cổ trên đất Việt và đường vận hành của chim lạc trên trống đồng phản ánh các Kinh Lạc gốc.
– Lạc Việt là một bộ tộc trong nhóm bộ tộc Bách Việt, có các xưng danh Lạc vương, Lạc hầu, Lac tướng và đất đai gọi là Lạc điền. Theo truyền thuyết của Việt Nam, tổ của người Lạc Việt bắt nguồn từ vùng Động Đình Hồ, nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc, và địa bàn sinh sống lan rộng xuống tận vùng Bắc Trung Bộ của Việt Nam ngày nay. Tài liệu cổ nhất viết về Lạc Việt là Giao Châu Ngoại Vực Ký (thế kỷ 4), được sách Thủy kinh chú (thế kỷ 6) dẫn lại như sau : “Thời xưa khi Giao Chỉ chưa có quận huyện, thì đất đai có Lạc Điền, ruộng ấy là ruộng (cầy cấy) theo con nước thủy triều. Dân khai khẩn ruộng ấy mà ăn nên gọi là Lạc Dân. Có Lạc Vương, Lạc Hầu làm chủ các quận huyện. Ở huyện phần đông có Lạc Tướng. Lạc Tướng có ấn bằng đồng, (đeo) giải (vải màu) xanh. Về sau con vua Thục đem ba vạn lính đánh Lạc Vương Lạc Hầu, thu phục các Lạc Tướng. Con vua Thục nhân đó xưng là An Dương Vương”. Nói chung dân Bách Việt lên núi có một nhóm là dân Lạc Việt, có thể hiểu là người Việt con của cha Lạc Long Quân. Lạc Việt chính là tiền thân của dân tộc Kinh. Người Lạc Việt gọi là lạc dân, quan chức gọi là lac hầu, lạc tướng, lạc vương, và đất ruộng gọi là lạc điền. Các huyền sử của dân tộc ta giai đoạn Hùng Vương đến nay chủ yếu là của Lạc Việt.
– Nước Âu Lạc của An Dương Vương sau khi nhận ngôi từ vua Hùng Vương 18. Âu Lạc là giai đoạn kết thúc của dòng Lạc Việt nối nhau làm vua Hùng.
Lạc Dương là một trong những cái nôi văn minh Trung Hoa, một trong bốn cố đô vĩ đại của Trung Hoa trong suốt giai đoạn 2000 năm trước và sau Công Nguyên. Lạc Dương nằm ở phía Tây của nước Trung Quốc hiện nay, trên bờ sông Lạc Hà, một nhánh của sông Hoàng Hà. Ngoài ra, thành phố này còn có các tên gọi như “Đông Đô” (nghĩa là kinh đô phía đông), “Tây Kinh” (nghĩa là “kinh đô phía tây”) hay “Kinh Lạc” (nghĩa là kinh đô chung của cả Trung Quốc).
– Ban đầu thành phố này được Triệu Khang công hay Thiệu công Thích theo lệnh của Chu Công xây dựng vào thế kỷ 11 TCN và được đặt tên là Thành Chu. Nó trở thành kinh đô của nhà Đông Chu kể từ năm 770 TCN cho đến giai đoạn Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc. Đây là giai đoạn được mô tả trong tiểu thuyết Đông Chu Liệt Quốc.
– Từ năm 25 tới năm 190, Lạc Dương trở thành kinh đô của nhà Đông Hán, từ Hán Quang Vũ Đế (đánh Hai Bà Trưng) cho tới đầu thời kỳ trị vì của Hán Hiến Đế. Năm 68, Bạch Mã tự, ngôi chùa Phật giáo đầu tiên ở Trung Quốc, đã được xây dựng tại Lạc Dương.
– Từ thời Tam Quốc, năm 221 khi Ngụy Văn Đế (Tào Phi) lên ngôi cho đến thời Tấn Mẫn Đế nhà Tây Tấn (năm 316), Lạc Dương vẫn tiếp tục là kinh đô.
– Năm 493, hoàng đế Ngụy Hiếu Văn Đế nhà Bắc Ngụy lại di chuyển kinh đô từ Đại Đồng, Sơn Tây về Lạc Dương và bắt đầu cho xây dựng Long Môn thạch quật (hang đá Long Môn) nhân tạo. Trên 30.000 bức tượng Phật từ thời kỳ của triều đại này đã được tìm thấy trong hang. Lạc Dương là kinh đô đến năm 534 khi nhà Bắc Ngụy kết thúc.
– Năm 909 khi hoàng đế nhà Hậu Lương là Hậu Lương Thái Tổ Chu Ôn lại chuyển kinh đô về đây với tên gọi Tây Đô và nó là kinh đô cho tới năm 913 đầu thời Hậu Lương Mạt Đế.
– Năm 923 khi nhà Hậu Đường nắm quyền thì một lần nữa nó lại là kinh đô với tên gọi Đông Đô.
– Năm 936 nhà Hậu Tấn đổi tên nó thành Tây Kinh và đóng đô ở đây khoảng 2 năm.
Lạc Dương nổi lên đúng giai đoạn kinh đô Phong Châu của Bách Việt bắt đầu đi xuống và Lạc Dương chìm đi, trước khi Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long, bắt đầu giai đoan ổn định của các triều đại phong kiến Việt Nam.