CẦU NẠI HÀ & CẦU Ô THƯỚC

Loading

Cầu Nại Hà, xuất hiện vào Tết Vu Lan, cầu Ô Thước, xuất hiện vào Tết Thất Tịch. Cả hai cây cầu này đều xuất hiện trong dịp tháng Bảy âm lịch.
Bản chất thì Tết nào cũng có cầu, bắc từ chu kỳ trước sang chu kỳ sau. Đón Tết được hay không nghĩa là có lên cầu được hay không.
Nhưng tháng 7 rất đặc biệt vì có hai cầu và hai cái Tết, đối xứng âm dương với nhau
CẦU ÂM DƯƠNG
Cả hai đều là cầu âm dương.
Cầu Nại Hà là cầu âm dương sinh tử
– Cầu Nai Hà dẫn các linh hồn đi đầu thai từ tử sang sinh
– Cầu Nại Hà dẫn người chết từ dương gian sang âm giới, nghĩa là từ sinh sang tử
– Cầu Nại Hà dẫn người dương vào thế giới âm rồi quay về trong các trải nghiệm dạng mơ, thiền, cận tử hay tái sinh.
– Cầu Nại Hà dẫn người âm vào thế giới dương trong một số trải nghiệm đặc biệt như nhập hồn, báo mộng …
Cầu Ô Thước là câu âm dương nam nữ
– Ngưu Lang đứng ở đầu dương của cầu
– Chức Nữ đứng ở đầu âm của cầu
– Hai người yêu nhau và họ bước qua cầu để được gặp nhau vào Thất Tịch ở giữa cầu
CỔNG GIỮA HAI CÂY CẦU
Cổng giữa hai cây cầu là điểm có trang thái âm dương đặc biệt, vì Nại Hà và Ô Thước đều là cầu âm dương
Giữa cầu Nại Hà là điểm không âm không dương, tạm gọi là cổng Không, cổng Vô, hay cổng Diệt. Cổng này dịp Vu Lan thường xuất hiện ở các chùa, do đạo Phật là Trung đạo.
Giữa cầu Ô Thước là điểm chồng chập âm dương, nơi Ngưu Lang gặp Chức Nữ. Cổng này gọi là cổng Tình yêu, cổng Hữu, cổng Sinh, bởi vì đứa con là kết quả của tình yêu và giao hoà âm dương của cha mẹ.
CẦU BẮC QUA SÔNG XUYÊN THẾ GIỚI
Cả hai cầu đều bắc qua sông xuyên thế giới
– Cầu Ô Thước bắc qua hai bờ sông Ngân, xuyên qua dải Ngân Hà, thế giới dương do Ngọc Hoàng cai quản
– Cầu Nại Hà bắc qua sông Vong Xuyên, xuyên qua Âm Phủ, do Diêm Vương cai quản
CÁC VỊ THẦN CẦU
Cầu Nại Hà
– Thập Điện Chuyển Luân Vương : Nại Hà là cây cầu ở Địa ngục thứ 10 của Thập Điện Chuyển Luân Vương.
– Mạnh Bà : Những linh hồn sau khi đi qua cầu Nại Hà sẽ phải lựa chọn hoặc là uống một loại nước (canh Mạnh Bà hay còn gọi là cháo lú) để quên đi mọi thứ từ kiếp trước và bắt đầu một kiếp mới, hoặc là không uống, nhưng họ sẽ không được đầu thai ngay mà phải chịu đựng nỗi dày vò ngàn năm dưới dòng Vong Xuyên. Nếu ai chọn uống canh Mạnh Bà, linh hồn của họ sẽ được chuyển đến Phong Đô – nơi đầu thai chuyển kiếp.
– Diêm Vương, Ngưu Ma Vương, Địa Tạng Vương, Minh Vương quản lý Âm Phủ, Địa Phủ, Minh Ty
Cầu Ô Thước
– Ngưu Lang là vị thần chăn bò
– Chức Nữ là vị thần dệt vải
– Ngọc Hoàng là người ngăn cách hai người này, nhưng cũng là người ra lệnh xây cầu Ô Thước cho hai người này gặp nhau
NGƯỜI DẪN ĐƯỜNG HAY NGƯỜI KẾT NỐI CÂY CẦU
Cầu Nại Hà : Quỷ sứ Đầu trâu mặt ngựa, làm việc cho Diêm Vương
Cầu Ô Thước : Quạ đen đầu trắng, làm việc cho Ngọc Hoàng
CẦU NHỊP & CẦU LUỒNG
Cầu nhịp là cầu có các nhịp mặt cầu, tương ứng với các nhịp chân cầu. Người đi trên mặt cầu nhịp phải bước từ nhịp cầu này sang nhịp cầu khác, còn chân cầu là các nhịp cấu trúc trong nước từ bờ bên này sang bờ bên kia.
Cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp
Em qua không kịp tội lắm anh ơi
Cầu Tràng Tiền là cầu nhịp tiêu biểu. Trong bài ca dao này, người con trai không chủ động bước qua cầu, làm người con gái phải nỗ lực, giống như là người con gái yêu nhiều hơn, cố gắng nhiều hơn, hy sinh nhiều hơn.
Cầu luồng tạo ra luồng để đi luôn một lèo từ đầu cầu này sang đầu cầu kia, ví dụ
– Cầu ván gỗ
– Cầu dây văng
– Cầu tre
Nếu dùng các thanh gỗ ghép nên cầu thì
– Cầu luồng ghép thanh gỗ dọc
– Cầu nhịp ghép thanh gỗ ngang
Cầu Ô Thước là cầu nhịp :
– Ngưu Lang và Chức Nữ phải bắt nhịp vào nhau, hoà đồng với nhau và đi qua các nhịp cầu thì mới gặp nhau giữa cầu được
– Ngưu Lang có thể phải đi nhiều nhịp hơn Chức Nữ hoặc ngược lại
– Cầu Ô Thước có đủ nhịp ở hai đầu nhưng thiếu nhịp ở giữa, nên đàn quạ phải dùng thân chúng để làm nhịp ở giữa cầu cho Ngưu Lang và Chức Nữ găp nhau
Cầu Nại Hà là cầu luồng, không có nhịp : Cơ bản trên cầu Nại Hà có bốn luồng
– Từ đầu sinh sang đầu tử
– Từ đầu tử sang đầu sinh
– Từ đầu sinh đi sang nhưng không qua được cầu, rơi xuống sông
– Từ đầu tử đi sang nhưng không qua được cầu, rơi xuống sông
Cây cầu tạo ra bởi cả Ô Thước và Nại Hà gọi là cầu Kiều
Bồng bồng mẹ bế con sang
Đò dọc quan cấm, đò ngang không chèo
Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy
Cầu Kiều sẽ giúp hoá giải cản trợ cả theo luồng và theo nhịp, cả dọc và ngang.
Tuy nhiên, người ta vẫn gọi cầu Nại Hà là Nại Hà Kiều.
Ô Thước là cầu ô, nghĩa là phải có lưới dọc ngang, đồng thời là cầu thước, nghĩa là thẳng một lèo không cần nhịp hay ô. Ô thước thường được dịch là quạ đen hay thước đen. Quạ đen là con vật liên quan đến thế giới âm, nhưng quạ làm cầu thước là quạ đen đầu trắng. Nghĩa là Ô Thước cũng là cầu Kiều.
Cầu Kiều là cầu chuyển hoá âm dương
CHUYỂN HÓA ÂM DƯƠNG
Cầu Nại Hà : Chuyển hoá âm dương xảy ra khi một đối tượng đi được từ đầu này sang đầu kia của cây cầu, mà không bị rơi xuống giữa chừng
Cầu Ô Thước : Khi Ngưu Lang đi từ 1 đầu cầu gặp Chức Nữ đi từ đầu kia của cầu, ở giữa cầu, có thể nói họ đã thực hiện một chuyển hoá tình yêu. Cầu Ô Thước không chỉ dành cho Ngưu Lang, Chức Nữ mà dành cho tất cả các cặp đôi yêu nhau và là một nửa của nhau
CHUYỂN PHÁP LUÂN
Bình thường cầu Ô Thước không thể gặp cầu Nại Hà, nhưng tháng 7 có thể xảy ra hiện tượng này, gọi là Chuyển pháp luân, hay chuyển chu kỳ của bánh xe luân hồi
– Cầu Nại Hà : Chuyển pháp luân là chuyển tử thành sinh, chuyển địa ngục thành thiên đàng. Mục Kiền Liên muốn cứu mẹ thì không thể chỉ đi qua cầu Nại Hà để gặp mẹ, mà còn phải giúp mẹ thực hiện được việc chuyển hoá này. Tháng Bảy chính là tháng xảy ra chuyển hoá này, nghĩa là Cầu Nại Hà mở và xảy ra Chuyển pháp luân.
– Cầu Ô Thước : Chuyển pháp luân là chuyển từ âm dương phân tách thành âm dương hợp nhất
Chuyển pháp luân là thời khắc mà những điều kỳ diệu có thể xảy ra. Tháng Bảy tháng mà có cầu Kiều tạo nên bởi cả cầu Ô Thước và cầu Nại Hà có thể coi là một tháng kỳ diệu.
Chia sẻ:
Scroll to Top