CÁC CẤU TRÚC NƯỚC
Các cấu trúc nước đi bộ với cấu trúc đất và cấu trúc cây con theo bộ Nhà – Đồng – Rừng
– Đất nhà – Đất đồng – Đất rừng
– Nước nhà – Nước đồng – Nước rừng
– Vườn nhà – Vườn đồng – Vườn rừng
1. NƯỚC NHÀ
– Giếng nhà : Giếng đất (giếng khoan, giếng đào) – Giếng trời
– – – Nước đất
– – – Nước ngầm
– – – Nước dọc
– – – Nước kim
– Ao : Ao đất – Ao trời (mây)
– – – Nước trời
– – – Nước hiện
– – – Nước chéo
– – – Nước mộc
– – – Nước mưa
– – – Nước bốc hơi
– Mặt sân, mặt mái, ống nước (cấp, thoát), ống máng, bể nước :
– – – Nước mặt
– – – Nước ngang
– – – Nước chảy
Tương ứng với bộ bào thai
– Nhà : thân
– Ao : bao điều (ao đất) – hào quang (mây, ao trời)
– Giếng : rốn thân
2. NƯỚC ĐỒNG
Nước nguồn
– Giếng đồng/Nước nguồn từ đất/Kim – Nhà
– Mó nước/Nước nguồn từ đất/Mộc – Rừng
– Ngòi
Nước luồng
– Kênh (Đá) – Rừng
– Rạch (Lối mòn đất) – Nhà
– Lạch
– Ngòi
– Mương – Đồng
Nước trữ, nước mặt
– Chuôm – Nhà
– Đầm – Đồng
– Bưng
– Bàu – Rừng
3. NƯỚC RỪNG BIỂN
Nước rừng
– Mó
– Khe chảy rãnh đá
– Suối
– Sông
– Hồ
– Biển
Nước biển
– Biển
– Vinh
– Đại dương
—o—o—o—
CẤU TRÚC NƯỚC CỦA VƯỜN NHÀ
– GIẾNG – NƯỚC NGẦM/ĐẤT
Giếng lấy nước ngầm từ dưới lòng đất lên.
Giếng đi qua nhiều tầng đất tính từ tầng mặt. Tầng đáy sẽ là tầng quyết định nhiều đến chất lượng nước giếng, nên thợ khoan giếng sẽ không dừng khoan khi gặp tầng nước đầu tiên, mà dừng khoan ở tầng nước trong.
Giếng cơ bản nhận nước mạch dọc, nếu nhận nước mạch ngang cũng là ngang ngầm. Giếng giữ được nước nhờ giữ được trục dọc nên phải xây thành giếng.
Thân em như giếng giữa đàng
Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân
Giếng làng vẫn mạch nước trong
Mặc ai phụ bạc đèo bòng với ai
– AO – NƯỚC MƯA/TRỜI
Ao đón nước mưa từ trên trời xuống. Ao chỉ đi qua một hai tầng đất tính từ tầng mặt. Ao giữ được nước nhờ
– kết cấu bùn đáy ao, một dạng màng nhầy đất, nước, cát và các vật chất gốc mộc lắng đọng, cho nên sau khi đào ao phải dậm đáy ao cho chặt
– kết cấu bùn thành ao, vẫn là đất, nước, cát, kết hợp với lưới thực vật thành ao và bờ ao
– kết cấu màng lưới bề mặt : ao chứa nước mưa nên rất dễ cạn, cần có một màng đậy bề mặt nước, mà được tao ra từ nước khí và bèo
Giếng và ao gắn với cấu trúc đất nhà vườn. Giếng và ao đều ở trong đất, giếng tách bạch với đất, mang tính kim, còn ao hoà quyện với đất, mang tính mộc.
Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn
—o—o—o—
CẤU TRÚC NƯỚC CỦA ĐỒNG NƯƠNG RẪY
– NGÒI
– CHUÔM
Chuôm tương đương với ao, nên có khái niệm ao chuôm
– ĐẦM – NƯỚC TRỜI ĐẤT THIÊN VỀ ĐẤT
Đầm có hệ sinh vật rất giống ao nhưng đầm có nguồn nước đất tự nhiên mà cung cấp cả nước và khoáng đất cho đầm, khiến tỷ lề bùn của đầm rất cao
Đầm có thể có các mạch nước tự nhiên, tương đương như mó, mà được giữ nhờ hệ thống bùn kết hợp với lưới cây thuỷ sinh
– BÀU NƯỚC hoặc BÀU ĐẤT
Cá bàu ngon hơn cá đồng
Tháng năm tát cá dưới bàu,.
Nắng ơi là nắng dãi dầu vì ai.
Chê sông mà uống nước bàu
Chê đây lấy đó có giàu hơn ai.
Bao giờ Bưng Bạc hết sình
Bàu Thành hết nước thì mình hết thương
– SÔNG – NƯỚC NGANG
Sông rất giống hồ, đều là nước giữa khe các bản thổ; sự khác biệt của sông và hồ, là hồ là nước tĩnh, nước đọng, nước dọc, còn sông là nước động, nước chảy, nước có luồng, nước ngang.
Sông hồ gắn với cấu trúc núi, nên có khái niệm sông núi, hồ trên núi.
– KINH
Các loại kinh
– Kinh xuôi : thường dài, rộng, giúp nước lưu thông giữa đồng ruộng và sông lớn
– Kinh ngang : thường hẹp, ngắn, như cây cầu nối những kinh xuôi lại với nhau.
– Kinh xáng
Kinh ngang nó nhớ kinh xuôi
Anh biết em chòm xóm lâu rồi
Như con sông Cổ Chiên thầm lặng
Cảm thương người có chồng xa xứ biệt tăm
– MƯƠNG
– KÊNH
– RẠCH
Là các cấu trúc dẫn nước từ sông, hồ hay đầm về đồng
—o—o—o—
CẤU TRÚC NƯỚC CỦA RỪNG BIỂN
– MÓ (MỎ NƯỚC) – NƯỚC TRỜI ĐẤT THIÊN VỀ TRỜI
Mó là mạch nước tự phun trào lên bề mặt, không cần khoan như giếng.
Mó xuất hiện ở các khe nứt của đá và lỗ tự nhiên của đất.
Mó (đào nguyên)
– Mó nước
– Mỏ lửa : núi lửa
– Mó đất
– Nó khí : mó khí nóng, mó khí mêtan,
– SUỐI
Suối thường được coi là nguồn của sông.
Suối chảy trên các mạch đá, có sự tiếp xúc với đá.
Suối có nguồn là các mó nước.
– KHE
Suối chảy giữa các khe đá là khe.
– BIỂN – NƯỚC
Sông chảy ra biển, biển là bể chứa của sông.
Biển là biên của đại dương, biển là ao của đại dương
– ĐẠI DƯƠNG – NƯỚC ĐẤT/TRỜI/NGANG
Đại dương là hồ nằm giữa các bản thổ cấp Trái đất, bản thổ lục địa
Đại dương có nước nguồn (các dạng mó nước của biển), nước mưa, nước ngang (là sông)
– HỒ – NƯỚC TRỜI ĐẤT
Hồ gắn với đá, hồ có thể là mó nước cổ, mà mạch gốc đã bị bùn vùi lấp ở đáy hồ, thậm chí chìm rất sâu dưới các tầng đất. Khi năng lực đón nước và trữ nước trời của miệng mó cân bằng khả năng đẩy nước ngầm lên của đấy mó, nước sẽ được tích trữ thành hồ.
Hồ là vũng nước giữa núi hoặc giữa các quả núi.
Hồ đích thực không nằm ở tầng đất bề mặt như ao, cũng không đi xuyên tầng đất như giếng, mà nằm lọt giữ các khe bản thổ, đặc biệt là bản thổ đá.
Khi bản thổ của hồ là bản thổ gốc của Trái đất và khe nước của hồ ăn xuống các tầng lõi Trái đất, thì có biển hồ.
Hồ đón nước mưa, nước ngầm và mạch nước ngang. Nước ngầm của hồ không sâu và có sức đẩy dọc như giếng. Ao như cái bát còn hồ giống như cái bát thủng mà có thể ngấm nước từ nguồn nước ngầm lên.
Bộ cấu trúc nước liên quan đến đá tính từ nguồn :
– Mó
– Khe
– Suối
– Hồ trên núi, hồ trong mạch sông như hồ Trị An sông Đồn Nai, hồ Hoà Bình sông Đà, hồ Tà Đùng sông Đồng Nai
– Sông
– Biển
– Đại dương
Hồ
– Hồ trên núi (ao núi)
– Hồ suối : Hồ suối hai
– Hồ sông : hồ Hoà Bình, hồ Trị An, hồ Tà Đùng
– Hồ biển : Biển Hồ Pleiku