Ca dao tục ngữ về SẮC

Loading

SẮC SẮC NHỤT NHỤT

Sắc sắc nhụt nhụt
Ta ở nước lụt
Thầy mới tới đây
Có ai cứu thầy
Khỏi cơn nước lụt

—o—

SẮC SẮC SOI SOI

Sắc sắc soi soi
Đầu đội mâm xôi
Tay cầm chén mắm
Vừa đi vừa nhắm
Hết cả mâm xôi

—o—

SÚC SẮC, SÚC SẺ

Súc sắc, súc sẻ
Nhà nào còn đèn, còn lửa
Mở cửa cho anh em chúng tôi vào
Bước lên giường cao, thấy đôi rồng ấp
Bước xuống giường thấp, thấy đôi rồng chầu
Bước ra đằng sau, thấy nhà ngói lợp
Voi ông còn buộc, ngựa ông còn cầm
Ông sống một trăm linh năm tuổi lẻ
Vợ ông sinh đẻ những con tốt lành
Những con như tranh, những con như vẽ

—o—

SẮC XYZ

SẮC ĐÁ (SẮT ĐÁ)

Ngó ra Phú Quốc, ngó lại Côn Nôn
Gió rao rao sóng bủa hết hồn
Bền gan sắc đá trừ phồn tà gian

—o—
SẮC ĐẸP
Thuở hồi anh nhỏ thầy anh có bảo rằng:
Cứ chuyên tập nghiệp hằng
Phải siêng năng đọc sách
Câu: Võ vô thiết tỏa năng lưu khách,
Sắc bất ba đào dị nịch nhân
Xét xa rồi lại xét gần
Thấy em ai khiến mười phần nên thương.
—o—
SẮC HOA
Trăng lên trăng sáng bờ thềm
Uốn tay cho mềm dệt lụa cho anh
Quần áo anh, em may em cắt
Em nhuộm vàng thắm sắc hoa vông
Bên kia sông, nhớ em không?
—o—
SẮC LẺM
Nói thì sắc lẻm, mần thì cùn trơ
—o—
SẮC MÀU : SẮC VÀNG
Trăm hoa đua nở mùa xuân
Cớ sao hoa cúc lại muộn tuần thu sang?
– Vì hoa tham lấy sắc vàng
Cho nên hoa phải muộn màng tiết thu
—o—

Hoa phi đào phi cúc
Sắc phi lục phi hồng
Trơ như đá vững như đồng
Ai xô không ngã, ngọn gió lồng không xao
Mỉa mai cụm liễu cửa đào
Ong qua muốn đậu, bướm vào muốn bu
Bốn mùa đông hạ xuân thu
Khi búp, khi nở, khi xù, khi tươi
Chúa xuân ngó thấy mỉm cười
Sắc hay vương vấn mấy người tài danh
Có bông, có cuống, không cành
Ở trong có nụ, bốn vành có tua
Nhà dân cho chí nhà vua
Ai ai có của cũng mua để dành
Tử tôn do thử nhi sanh
Bạch huê mỹ hiệu xin phành ra coi

—o—
SẮC MẶT
Tóc đen, thưa, rộng mà dài
Vuông tròn sắc mặt là trai anh hùng
—o—
SẮC MẮC

Con chim nho nhỏ, cái mỏ hắn vàng
Hắn đứng trước cửa tam quan
Hắn kêu hỏi bác lính khố vàng
Chớ có ham nơi giàu sang sắc mắc
Mà phụ phàng duyên nợ đôi ta

—o—
SẮC NƯỚC HƯƠNG TRỜI
Con nhạn nó liệng lên mây
Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ
Cái sự dầu dãi tự bấy đến giờ
Kiếp phong trần chị Ba rũ đến bao giờ thì thôi
Tiếc thay sắc nước hương trời
Cớ làm sao phải lạc loài đến đây
Ai làm cho nên nỗi nước non này
Bông hoa sao héo dãi dầu với hoa
Căm gan này nên giận trăng già
Tình này ai tỏ cho ta nỗi lòng
—o—
SẮC SẢO
Dù anh văn hoá lớp mười
Anh chưa ra trận, em thời không yêu
Dù anh sắc sảo, mỹ miều
Nếu không ra trận, không yêu làm chồng
—o—
SẮC THUỐC – SẮC NƯỚC
Ra về ruột nọ quặn đau
Nhơn sâm sắc uống mấy tàu cho nguôi
—o—
Em không nhớ thuở anh cầm ngọn dao sắc
Anh cắt năm bảy cái lát gừng
Anh bỏ vào thang thuốc bắc
Anh sắc chén rưỡi còn bảy phân
Tay anh đỡ lưng, miệng anh vái tổ
—o—
Hột muối mặn, ba năm còn mặn
Lát gừng cay, sắc chín nước còn cay
Anh thương em cha mẹ không hay
Như ngọn đèn giữa gió, biết xoay phương nào?
Nguyện cho em uống vào, bịnh thuyên dù mười phân
—o—
SẮC TƯƠI
Dái tai như hột châu thòng
Có thành, có quách, dày, hồng sắc tươi
Thiệt người phú quý thảnh thơi
Phong lưu tao nhã trên đời chẳng sai
—o—
SẮC THÁI
—o—
SẮC XUÂN
—o—o—o—

XYZ – SẮC

BÓNG SẮC

Gió khan phải cạn ruộng đồng
Ham chi bóng sắc nửa hồng nửa đen

—o—

CẢNH SẮC
Ai đã từng vào Nam ra Bắc
Thấy nhiều nơi cảnh sắc cũng xinh
Đi mô cũng nhớ quê mình
Nhớ sông Hương nước biếc, nhớ non Bình trăng trong
—o—
GÁI SẮC – TRAI SẮC 
Gái ham tài, trai ham sắc
—o—
Trai tài gái sắc
—o—

Ngồi buồn nghĩ chuyện xưa nay
Trai tài gái sắc sao tày người xưa
Đời nay ăn sớm ngủ trưa
Ngồi lê đôi mách bỏ thưa việc nhà

—o—
Trời sinh cái cửa ra vào
Cửa còn để ngỏ, đã nào có ai
Sao em khoe sắc khoe tài
Độc bình để trống nhành mai anh cắm vào
—o—
Thổ Sơn có giếng nước trong
Có rừng đốn củi, có sông đi chài
Có gái sắc, có trai tài
Người ngoài đã đến một hai không về
—o—
Nước Nam trai sắc gái tài
Gương bà Châu thị lưu đời ngàn năm
—o—
MÀU SẮC – SẮC MÀU
Đầu năm ra mắt mồng ba
Cúng ông Hành Khiển cùng là Hành Binh
Bói giò phải bói cho tinh
Xem tường màu sắc chân hình rủi may
—o—
NHAN SẮC

Sầu tương tư, hư nhan sắc

—o—
Đùng đùng người chạy qua truông
Mải mê nhan sắc buông tuồng bỏ em
—o—
Vai mang bức tượng thờ chồng
Thấy trai nhan sắc, nước mắt hồng tuôn rơi
—o—
Chàng đề phú thiếp đề thơ
Tưởng nhân duyên ấy bao giờ cho quên
Khuyên chàng giữ việc bút nghiên
Đừng tham nhan sắc mà quên học hành
—o—
Rắp toan cưỡi ngựa ra về,
Chàng đề câu đối thiếp đề câu thơ,
Mải vui ngồi chốn đám cờ,
Tưởng nhân duyên ấy bao giờ cho quên.
Chàng về giữ việc bút nghiên,
Đừng ham nhan sắc mà quên học hành.
Một mai kiếm được khoa danh,
Trước là rạng nghiệp sau mình vinh thân.
—o—
Cái cò lặn lội bờ ao,
Phất phơ đôi dải yếm đào gió bay.
Em về giục mẹ cùng thầy,
Cắm sào đợi nước biết ngày nào trong?
Cái cổ yếm em nó thõng thòng thòng,
Tay em đeo vòng như bắp chuối non.
Em khoe em đẹp em giòn,
Anh trông nhan sắc em còn kém xuân.
—o—
Vì hoa nguyệt mới sang chơi
Vì hoa nguyệt mới ngỏ lời với hoa
Nguyệt yêu hoa là người nhan sắc
Hoa yêu nguyệt là khách văn nhân
Nguyệt đây hoa đấy cũng gần
Nguyệt đây hoa đấy giao luân một nhà
Nguyệt yêu hoa xích lại cho gần
Để nguyệt than thở ân cần với hoa
Ước gì nguyệt sánh với hoa
Ước gì mình sánh với ta hỡi mình
Ước gì tính sánh với tình
Ai mang cành quýt cành quỳnh sánh đôi
Ước gì quế sánh với hồi
Ước gì thục nữ sánh người văn nhân
—o—
SÂU SẮC
Tưởng anh sâu sắc giếng làng
Ai dè cạn sợt như làn nước mương
—o—
Đàn ông nông nổi giếng khơi
Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu
—o—

TÀI SẮC

Trăm năm xe sợi chỉ hồng
Buộc người tài sắc vào trong khuôn trời
Bao giờ tài sắc có lời
Thì ta lại cởi khuôn trời cho ra

—o—

MẮT SẮC
– Đố anh chi sắc hơn dao
Chi sâu hơn bể, chi cao hơn trời
– Em ơi mắt sắc hơn dao
Bụng sâu hơn bể, trán cao hơn trời
—o—
Cái gì mà thấp, cái gì mà cao?
Cái gì sáng tỏ hơn sao trên trời?
Cái gì em trải anh ngồi?
Cái gì thơ thẩn ra chơi vườn đào?
Cái gì mà sắc hơn dao?
Cái gì phơn phớt lòng đào thì em bảo anh?
Cái gì trong trắng ngoài xanh?
Cái gì soi tỏ mặt anh, mặt nàng?
Cái gì xanh, đỏ, trắng, vàng?
Cái gì ăn phải dạ càng tương tư?
Cái gì năm đợi tháng chờ?
Cái gì em đội phất phơ trên đầu?
Cái gì sắc hơn dao cau?
Cái gì tiện chũm cho nhau ăn cùng?
Một quan là mấy trăm đồng?
Một mối tơ hồng là mấy trăm dây?
Một cây là mấy trăm cành?
Một cành là mấy trăm hoa?
Em ngồi em giảng cho ra,
Thì anh kết nghĩa giao hòa cùng em
– Đất thì thấp, trời thì cao
Ngọn đèn sáng tỏ hơn sao trên trời
Chiếu hoa em trải anh ngồi
Khi buồn thơ thẩn ra chơi vườn đào
Con mắt em sắc hơn dao
Trứng gà phơn phớt lòng đào hỡi anh
Cau non trong trắng ngoài xanh
Gương tàu soi tỏ mặt anh, mặt nàng
Chỉ ngũ sắc xanh, đỏ, trắng, tím, vàng
Bùa yêu ăn phải dạ càng tương tư
Đôi ta năm đợi, tháng chờ
Cái khăn em đội phất phơ trên đầu
Con mắt anh liếc sắc hơn dao cau
Cau non tiện chũm cho nhau ăn cùng
Một quan là sáu trăm đồng
Một mối tơ hồng là sáu trăm dây
Một cây là sáu trăm cành
Một cành là sáu trăm hoa
Thưa anh em đã giải ra
Mong anh kết nghĩa giao hòa cùng em!
—o—
LƯỠI SẮC
Lưỡi sắc hơn gươm
—o—
NANH SẮC
Sắc nanh, chuột dễ cắn được cổ mèo
—o—
CƯA SẮC
Cưa sắc không bằng chắc kê
—o—
DAO SẮC
Dao sắc không gọt được chuôi
—o—
Dao sắc đến đâu bỏ hoài cũng rỉ
—o—
Dao năng liếc thì sắc
Người năng chào thì quen
—o—
Dao có mài có sắc
Người có học có khôn
—o—
Con dao bé bé sắc thay
Chuôi sừng bít bạc về tay ai cầm
Lòng tôi yêu trộm nhớ thầm
Trách ông Nguyệt lão xe lầm duyên ai
Duyên tôi còn thắm chưa phai
Hay là người đã nghe ai dỗ dành
—o—
Tay cầm con dao
Làm sao cho sắc
Để mà dễ cắt
Để mà dễ chặt
Chặt lấy củi cành
Chạy lên rừng xanh
Chạy quanh sườn núi
Một mình thui thủi
Chặt cây, chặt củi
Tìm chốn ta ngồi
Đỗi mát thảnh thơi
Kìa một đàn chim
Ở đâu bay đến
Ở đâu bay lại
Con đang cắn trái
Con đang tha mồi
Qua lối nọ nó ăn
Cái con hươu kia
Mày đang ăn lộc
Lộc vả, lộc sung
Mày trông thấy tớ
Mày đừng có sợ
Tớ không đuổi mày
Mày quay đi mất…
—o—

SẮC : ĐỘNG TỪ

PHONG SẮC – SẮC PHONG – GIẤY SẮC

Tiếng đồn con gái Nghĩa Đô
Quanh năm làm giấy cho vua được nhờ

—o—

Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa vạc nấu dó, kìa sông đãi bìa
Kìa giấy Yên Thái như kia
Giếng sâu chín trượng nước thì trong xanh
Đầu chợ Bưởi có điếm cầm canh
Người đi kẻ lại như tranh họa đồ
Cổng chợ có miếu thờ vua
Đường cái chính xứ lên chùa Thiên Niên
Chùa Thiên Niên có cây vọng cách
Chùa Bà Sách có cây đa lông
Cổng làng Đông có cây khế ngọt
Con gái Kẻ Cót thì đi buôn xề
Con trai làng Nghè dệt cửi kéo hoa
An Phú nấu kẹo mạch nha
Làng Vòng làm cốm để mà tiến vua.
Họ Lại làm giấy sắc vua
Làng Láng mở hội kéo cờ hùng ghê.

NHUẬN SẮC
—o—

SẮC MÊ – MÊ SẮC

Sắc kia nào có mê ai
Ớ người mê sắc chớ cười sắc mê

—o—

SẮC TÀN

E khi thắm lạt vàng phai
Sắc tàn nhị mất, anh lại bỏ hoài không thương
– Anh thề có bóng trăng đây
Núi kia có lở tấm lòng này vẫn nguyên

BỘ ĐẾM SẮC

TỨ SẮC : ĐỎ VÀNG XANH TRẮNG
Tôi ở Cao Lãnh, tôi nghèo quá xá
Tôi chèo vô Cà Mau, Rạch Giá
Tôi mua ít giạ khoai lang
Tôi bán một giạ lời được một cắc
Tôi trở về thấy anh ngồi sòng tứ sắc
Thời tôi kể chắc ảnh thua rồi
Trời ơi, nhà nghèo con dăm bảy đứa
Gạo tôi kiếm từng nồi anh có biết không?
—o—
NGŨ SẮC : XANH ĐỎ TRẮNG ĐEN VÀNG 
Chỉ ngũ sắc xanh đỏ trắng đen vàng
Bùa yêu ăn phải dạ càng ngẩn ngơ
Biết đâu trong đục mà chờ
Hoa xuân mất tuyết dễ mong nhờ cậy ai
—o—
Cưới em ba họ nhà Trời
Đi xuống hạ giới cùng người rước dâu
Ngọc Hoàng cũng phải xuống chầu
Thiên Lôi, Thủy Tế đứng hầu đôi bên
Cầu vòng, mống cụt kéo lên
Xe mây ngũ sắc đưa viền tận nơi.
—o—
Ai mua chiếu hông
Chiếu bông chiếu trắng
Chiếu vắn chiếu dài
Chiếu dệt lầu đài
Cổ đồ bát bửu
Chiếu tây hột lựu
Da lợn bông bao
Chiếu rộng màu cau
Con cờ, mặt võng
Dệt bông chong chóng
Ngũ sắc, bá huê
Đẹp hết chỗ chê
Ngôi sao, tùng lộc
Chiếu trải giường hộc
Chiếu trải giường Tàu
Chiếu trải giường trước
Chiếu trải giường sau
Chiếu nào cũng có đủ
Trong gia chủ ai muốn mua thì mua
—o—
SẮC TỨ
Nem chợ Sãi,
Vải La Vang
Khoai Quán Ngang,
Dầu tràm Đại Nại
Mai phường Trúc
Nước độc Kim Giao
Gạo Phước Điền
Chiêng Sắc Tứ
Khoai từ Trà Bát
Quạt chợ Sòng
Cá bống Bích La
Gà Trà Lộc
Môn độn An Đôn
Tôm đồng Mai Lĩnh
Bánh ít Đạo Đầu
Trầu nguồn Khe Gió
Cỗ Trung Đơn
Thơm Bồ Bản
Nghệ vàng An Lộng
Xôi thống Hải Thành
Gạch Trí Bưu
Lựu Triệu Phước

Tối ăn khoai
Mai ăn sắn
Nắng Đông Hà
Đàn bà Hội Yên
—o—
MUÔN SẮC
—o—
SẮC : LƯNG CHỪNG, MÔT NỬA SO VỚI HÌNH TRÒN

Lương nông Cà Đó có tài
Nấu sắc lon gạo nồi hai cũng đầy

—o—

Khen cho gái Quảng có tài
Nấu lưng chén gạo nồi hai cũng đầy
—o—o—o—o—-
Chia sẻ:
Scroll to Top