Tết Trung Thu

Loading

Thời gian : Rằm tháng tám

Các Lễ Tết của mùa thu

Mùa thu

– Thời tiết

– Hoa : Cúc

– Quả : na, hồng, bưởi, thị, cam

– Con vật

– Trăng thu

Nhân vật :

– Chú Cuội cung trăng : Cuội, Hằng Nga, Cây đa, Mặt trăng

– Hâu nghệ bắn Mặt trời, cứu Hằng Nga

– Thỏ Ngọc trên cung trăng

– Cóc Thiềm Thừ : Thời xưa tương truyền có con cóc (thiềm thừ) ở trên mặt trăng. Sách Linh Hiến có viết: “Thường nga bèn náu mình lên cung trăng, đó là con thiềm thừ.” cho nên gọi cung trăng là thiềm cung.

– Múa Lân & ông Địa

– Mặt nạ

– Rước đèn ông sao

– Đèn kéo quân

– Đánh trống quân

– Bánh trung thu

– Mâm ngũ quả

– Bầy cỗ, trông trăng & Phá cỗ

Bánh

– Bánh nướng

– Bánh dẻo

Trò chơi

– Đèn kéo quân

– Trống quân

– Múa lân

– Đánh trống

– Đốt dây bưởi

– Thả đèn hoa đăng

– Đèn ông sư

– Rước đèn ông sao

====

MÙA THU – Các ngày lễ quan trọng

– 7/7 Thất Tịch & các đợt mưa ngâu : 3/7 – 7/7, 13/7 – 17/7, 23/7 – 27/7

Vào ba, ra bảy

—o—

Lác đác mưa ngâu,
Sình sịch mưa ngâu,
Lá ngâu rụng xuống,
Bông lau phất cờ,
Nước trong xanh lạnh ngắt như tờ,
Một đàn cá lớn nhấp nhô đầu ghềnh

– 13/7 Đại Thế Chí

– 15/7 Vu Lan

Cúng bái quanh năm không bằng rằm tháng Bảy
—o—
Vu Lan tháng bảy ngày rằm
Lòng con hiếu thảo ghi lòng chớ quên
—0—
Cả năm một rằm tháng Bảy
Cả thảy một rằm tháng Giêng
—o—
Cha già là Phật Thích ca,
Mẹ già đích thị Phật bà Quan âm
Nhớ ngày xá tội vong nhân
Lên chùa lễ Phật, đền ơn sinh thành
—o—

Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè
Tháng tư đong đậu nấu chè
Ăn tết Đoan Ngọ trở về tháng năm
Tháng sáu buôn nhãn bán trâm
Tháng bảy ngày rằm, xá tội vong nhân
Tháng tám chơi đèn kéo quân
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng
Tháng mười buôn thóc, bán bông
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành. 

– 17/7 Giỗ ông Hoàng Bảy

– 8/8 ngày giỗ của Ananda

– 15/8 Trung Thu

Dù ai buôn đâu bán đâu
Mười lăm tháng tám phường trâu sẽ về

—o—

Chợ Bưởi ngày chín, ngày tư
Riêng một tháng tám lại dư phiên rằm
Ai ơi nhớ lấy kẻo nhầm
Đi mua hoa quả chơi rằm trung thu.

—o—

Không tiền mặt ủ mày chau
Có tiền cái mặt như rằm trung thu

—o—

Lẳng lặng mà nghe
Tôi nói cái vè
Vè các thứ bánh
Mấy tay phong tình huê nguyệt
Thì sẵn có bánh trung thu
Mấy ông thầy tu
Bánh sen thơm ngát
Ai mà hảo ngọt
Thì có bánh cam
Những kẻ nhát gan
Này là bánh tét
Còn như bánh ếch
Để mấy ông câu
Hủ lậu từ lâu
Thì ưa bánh tổ 

– 20-8 Giỗ cha Hưng Đạo Vương : Ngày 20/8 âm lịch là giỗ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, còn ngày 3/3 âm lịch là giỗ Thánh mẫu Liễu Hạnh.

Tháng Tám giỗ cha
Tháng Ba giỗ mẹ

—o—

– Tết Cửu Trùng : 9-9
Mồng chín tháng chín có mưa
Thì con sắm sửa cày bừa làm ăn
Mồng chín tháng chín không mưa
Thì con bán cả cày bừa đi buôn.
– Rằm tháng Chín 15-9
Muốn ăn cơm chăm
Ném mạ rằm tháng chín
Lúa cấy tháng chạp
Đạp gốc mà gặt
– Ngày Quán âm xuất gia : 19-9
– Ngày 20-9 : ngày nước dâng lên, rươi chui lên
Tháng chín đôi mươi
Tháng mười mùng năm
===
TẾT TRUNG THU

ĐÈN KÉO QUÂN

Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè
Tháng tư đong đậu nấu chè
Ăn tết Đoan Ngọ trở về tháng năm
Tháng sáu buôn nhãn bán trâm
Tháng bảy ngày rằm, xá tội vong nhân
Tháng tám chơi đèn kéo quân
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng
Tháng mười buôn thóc, bán bông
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành.

—o—

TRỐNG QUÂN

Tháng tám anh đi chơi xuân
Đồn đây có hội trống quân anh vào
Trước khi hát, anh có lời rao:
Không chồng thì vào, có chồng thì ra
Có chồng thì tránh cho xa
Không chồng thì hãy lân la tới gần

—o—

Đã đi đến chốn thì chơi
Đã đi đến chốn tiếc lời làm chi?
Nhất niên nhất lệ một kì
Trống quân tháng Tám kể gì hơn thua!

BÁNH TRUNG THU

Lẳng lặng mà nghe
Tôi nói cái vè
Vè các thứ bánh
Mấy tay phong tình huê nguyệt
Thì sẵn có bánh trung thu
Mấy ông thầy tu
Bánh sen thơm ngát
Ai mà hảo ngọt
Thì có bánh cam
Những kẻ nhát gan
Này là bánh tét
Còn như bánh ếch
Để mấy ông câu
Hủ lậu từ lâu
Thì ưa bánh tổ … 

—o—

Phụ mẫu sanh em ra
Nước da em trắng, cặp chân mày ngay ngắn
Khéo nắn cái bánh nó tròn
Cha mẹ anh sanh anh ra
Sắm cho anh một cái nĩa vàng
Chờ cái bánh trung thu em đem tới
Thì cái nĩa vàng anh đâm vô

—o—

Bánh đứng đầu vè
Ðó là bánh tổ
Cái mặt nhiều lỗ
Là bánh tàn ong
Ðể nó không đồng
Ðó là bánh tráng
Ngồi lại đầy ván
Nó là bánh quy
Sai không chịu đi
Ðó là bánh bàng
Trên đỏ dưới vàng
Là bánh da lợn
Mây kéo dờn dợn
Là bánh da trời
Ăn không dám mời
Nó là bánh ít
Băng rừng băng rít
Ðó là bánh men
Thấy mặt là khen
Nó là xôi vị
Nhiều nhân nhiều nhị
Là bánh trung thu … 

—o—

SỰ TÍCH TRUNG THU

HẰNG NGA – HẬU NGHỆ – NGỌC HOÀNG

Một ngày kia, mười người con trai của Ngọc Hoàng biến thành mười mặt trời, làm cho mặt đất trở nên nóng bỏng và khô cằn. Thất bại trong việc ra lệnh cho các con mình ngừng phá hủy mặt đất, Ngọc Hoàng triệu Hậu Nghệ đến cứu giúp. Hậu Nghệ, bằng tài bắn cung của mình, đã bắn hạ chín mặt trời, chỉ để lại một người con trai của Ngọc Hoàng làm mặt trời. Ngọc Hoàng rõ ràng là không vui mừng gì với giải pháp của Hậu Nghệ trong việc cứu mặt đất và các sinh linh trên đó: chín con trai của ông đã chết. Như là một sự trừng phạt, Ngọc Hoàng đày Hậu Nghệ và Hằng Nga xuống hạ giới để sống cuộc sống của con người.

Cảm nhận thấy là Hằng Nga rất đau khổ vì bị mất khả năng bất tử, Hậu Nghệ quyết định lên đường đi tìm thuốc trường sinh trong một cuộc hành trình dài và đầy gian khổ, nguy hiểm để hai người có thể trở lại cuộc sống bất tử. Vào cuối cuộc hành trình, Hậu Nghệ đã gặp được Tây Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu đồng ý cho Hậu Nghệ một viên thuốc, nhưng dặn rằng mỗi người chỉ cần nửa viên để trở thành bất tử.

Hậu Nghệ mang viên thuốc về nhà và cất nó trong một cái hộp. Hậu Nghệ dặn Hằng Nga không được mở chiếc hộp và sau đó rời khỏi nhà trong một khoảng thời gian. Giống như Pandora trong thần thoại Hy Lạp, Hằng Nga trở thành người tò mò, Nàng mở chiếc hộp và nhìn thấy viên thuốc ngay khi Hậu Nghệ quay lại nhà. Sợ rằng Hậu Nghệ có thể nhìn thấy mình đang lục lọi chiếc hộp, nên vô tình Hằng Nga đã nuốt chửng viên thuốc. Ngay lập tức Hằng Nga bay lên trời do thuốc quá mạnh. Mặc dù Hậu Nghệ muốn bắn Hằng Nga để tránh không cho nàng bị lơ lửng trên bầu trời, nhưng chàng không thể nhằm mũi tên vào nàng.

Hằng Nga cứ bay lên mãi cho đến khi hạ xuống được Mặt Trăng. Đây được gọi là truyền thuyết Hằng Nga bôn nguyệt (Trên cung trăng, Hằng Nga kết bạn với một con thỏ ngọc đang chế thuốc trường sinh, cũng đang sống trên cung trăng.

Một người bạn khác là người thợ đốn củi Ngô Cương (hay cũng chính là Chú Cuội xuất hiện trong thần thoại dân gian Việt Nam). Người thợ đốn củi này trước đó đã có một người vợ,do vấp ngã nên mắc chứng hay quên. Người vợ hay quên lời chồng dặn nên đã tưới cây bằng nước bẩn, cây bứt gốc bay lên, chú cuội đu theo và bay về trời .Từ đó, cứ mỗi năm người ta lại thấy có bóng một người trên cung trăng( người ta nói rằng đó chính là Chú Cuội).

—o—o—o—

Có truyền thuyết khác, Hằng Nga là một cô gái trẻ sống trong cung điện của Ngọc Hoàng trên thiên giới, nơi chỉ có các vị thần tiên bất tử sống. Một ngày, nàng vô tình đánh vỡ một chiếc bình sứ quý báu. Vô cùng bực tức, Ngọc Hoàng đày nàng xuống trần, nơi con người sinh sống. Nàng chỉ có thể trở về trời nếu như làm được những việc có ích khi sống tại mặt đất.

Tại hạ giới, có 10 con kim ô đậu ở cây Phù Tang giữa biển đông, mỗi ngày một con bay từ Đông sang Tây, tạo ra ánh sáng cho hạ giới. Các con quạ vàng này chính là các mặt trời. Nhưng một ngày kia cây Phù Tang bị đổ, mười con Quạ Vàng bay khắp bầu trời, tạo thành mười Mặt Trời thiêu đốt thế giới khiến cây cối chết hết. Khi đó một chàng trai có tài bắn cung giỏi nhất là Hậu Nghệ đã giương cung bắn rơi chín con quạ, và định bắn nốt con thứ mười thì Hằng Nga xuất hiện và ngăn lại, để lại một Mặt Trời cho thế gian.

Người dân tôn Hậu Nghệ làm vua, chàng cưới Hằng Nga, con nhà bần nông nhưng xinh đẹp tuyệt trần làm vợ, đúng như lời Nguyệt Lão se duyên. Nhưng Hậu Nghệ nhanh chóng trở thành một bạo chúa. Hậu Nghệ tìm kiếm sự bất tử bằng cách ra lệnh chế thuốc trường sinh để kéo dài cuộc sống của mình. Thuốc trường sinh dưới dạng một viên thuốc gần như đã sẵn sàng khi Hằng Nga nhìn thấy nó. Nàng đã nuốt viên thuốc này, hoặc là vô tình hoặc là có chủ ý. Việc này làm Hậu Nghệ, tức giận. Cố gắng bỏ chạy, Hằng Nga đã nhảy qua cửa sổ của căn phòng ở tầng trên của cung điện, và thay vì bị rơi xuống thì nàng lại bay lên được về hướng Mặt Trăng.

Hậu Nghệ cố gắng bắn hạ nàng nhưng không thành. Bạn đồng hành của Hằng Nga trên cung trăng là một con thỏ ngọc đang nghiền thuốc trường sinh trong một chiếc cối giã lớn.

Trên cung trăng còn có một người thợ đốn củi đang cố gắng đốn hạ cây quế, nguồn tạo ra cuộc sống. Nhưng chàng càng đốn nhanh bao nhiêu thì thân cây lại liền lại nhanh bấy nhiêu và chàng không bao giờ đạt được mục đích của mình. Người Trung Quốc sử dụng hình ảnh cây quế để giải thích sự sống có sinh có tử trên Trái Đất – các cành cây luôn luôn bị chặt – đó là cái chết, nhưng các chồi mới cũng luôn luôn sinh ra – đó là sự sống.

—o—o—o—

Truyền thuyết ở Việt Nam cũng lưu giữ một vài dị bản về Hằng Nga.

Nguyên Hằng Nga là một cô gái trẻ sống trong cung điện của Ngọc Hoàng trên thiên giới, nơi chỉ có các vị thần tiên bất tử sống. Trong một lần xuống trần gian du ngoạn cùng con gái Ngọc Hoàng là Liễu Hạnh công chúa thì Hằng Nga đã phải lòng một người phàm tên là Nghệ. Được sự chấp thuận của Liễu Hạnh, nên Hằng Nga-Nghệ đã lấy nhau và sống vô cùng hạnh phúc.

Nhưng thời gian trôi qua thì Nghệ ngày càng già đi trong khi Hằng Nga vẫn trẻ mãi. Nghệ rất sợ một ngày nào đó Hằng Nga sẽ chê mình quá già rồi bỏ đi hoặc nếu không thì cái chết cũng sẽ chia lìa hai người nên Nghệ đã nhờ Hằng Nga lên thiên giới đánh cắp viên thuốc trường sinh bất lão cho mình. Vì tình yêu nên nàng đành nghe theo nhưng đã bị Ngọc Hoàng Thượng đế phát hiện.

Ông rất tức giận bèn giết chết Nghệ và đày Hằng Nga ở trên cung trăng mãi mãi.

Nhiều năm sau khi đã trở thành thần Mặt Trăng, Hằng Nga nhìn xuống mặt đất và thấy có một tên vua hung ác ngồi trên ngai vàng. Để giúp đỡ mọi người, Hằng Nga đã tái sinh thành một người và xuống mặt đất. Các thành viên khác trong gia đình nàng đã bị tên vua này giết chết hoặc bắt làm nô lệ, nhưng Hằng Nga đã trốn thoát về vùng nông thôn.

Trong thời gian ấy, tên vua hung ác đã có tuổi và bị ám ảnh bởi ý nghĩ tìm kiếm thuốc trường sinh. Hắn bắt mọi người đến để tra hỏi cách tìm ra thuốc trường sinh; lẽ dĩ nhiên là không ai biết, nhưng tên vua này không chấp nhận các câu trả lời và hành hình tất cả những người không có câu trả lời hoặc có câu trả lời mà ông ta không thỏa mãn.

Ở nông thôn, Hằng Nga gặp Quan Âm, và Quan Âm đã đưa cho Hằng Nga một viên thuốc “trường sinh” nhỏ. Hằng Nga đem viên thuốc tới cho tên vua. Tên vua đa nghi này ngờ là thuốc độc nên đã ra lệnh cho Hằng Nga thử trước. Sau khi nàng thử và không có biểu hiện ngộ độc nào thì tên vua kia uống viên thuốc và chết ngay lập tức. Sau đó, Hằng Nga cũng rời khỏi thế giới con người. Do nếm ít nên tác động của viên thuốc chỉ là làm chậm lại cái chết của nàng. Tuy nhiên, thay vì hấp hối, nàng đã kịp thời quay lại Mặt Trăng để biến thành nữ thần của cung trăng.

CHỊ HẰNG

Chiều chiều dạo mát dưới trăng
Trông lên chỉ thấy chị Hằng ở trong.

—o—

Cách nhau vì bởi xích thằng
Xa nhau vì bởi chị Hằng khiến xa

—o—

Đêm qua ngồi tựa song đào
Thấy người tri kỉ ra vào vấn vương
Năm canh gió lạnh đêm trường
Nửa chăn, nửa chiếu, nửa giường đợi ai
Tay em ngắt nhụy bông nhài
Tay giơ đón gió, tay chòi ghẹo trăng
Rủi may bởi tại chị Hằng

CHÚ CUỘI

Ngày xưa ở một miền nọ có một người tiều phu tên là Cuội. Một hôm, như lệ thường, Cuội vác rìu vào rừng sâu tìm cây mà chặt. Khi đến gần một con suối nhỏ, Cuội bỗng giật mình trông thấy một cái hang cọp. Nhìn trước nhìn sau anh chỉ thấy có bốn con cọp con đang vờn nhau. Cuội liền xông đến vung rìu bổ cho mỗi con một nhát lăn quay trên mặt đất. Nhưng vừa lúc đó, cọp mẹ cũng về tới nơi. Nghe tiếng gầm kinh hồn ở sau lưng, Cuội chỉ kịp quẳng rìu leo thoắt lên ngọn một cây cao.

Từ trên nhìn xuống, Cuội thấy cọp mẹ lồng lộn trước đàn con đã chết. Nhưng chỉ một lát, cọp mẹ lẳng lặng đi đến một gốc cây gần chỗ Cuội ẩn, đớp lấy một ít lá rồi trở về nhai và mớm cho con. Chưa đầy ăn giập miếng trầu, bốn con cọp con đã vẫy đuôi sống lại, khiến cho Cuội vô cùng sửng sốt. Chờ cho cọp mẹ tha con đi nơi khác, Cuội mới lần xuống tìm đến cây lạ kia đào gốc vác về.

Dọc đường gặp một ông lão ăn mày nằm chết vật trên bãi cỏ, Cuội liền đặt gánh xuống, không ngần ngại, bứt ngay mấy lá nhai và mớm cho ông già! Mầu nhiệm làm sao, mớm vừa xong, ông lão đã mở mắt ngồi dậy. Thấy có cây lạ, ông lão liền hỏi chuyện. Cuội thực tình kể lại đầu đuôi. Nghe xong ông lão kêu lên:

– Trời ơi! Cây này chính là cây có phép “cải tử hoàn sinh” đây. Thật là trời cho con để cứu giúp thiên hạ. Con hãy chăm sóc cho cây nhưng nhớ đừng tưới bằng nước bẩn mà cây bay lên trời đó!

Nói rồi ông lão chống gậy đi. Còn Cuội thì gánh cây về nhà trồng ở góc vườn phía đông, luôn luôn nhớ lời ông lão dặn, ngày nào cũng tưới bằng nước giếng trong.

Từ ngày có cây thuốc quý, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Hễ nghe nói có ai nhắm mắt tắt hơi là Cuội vui lòng mang lá cây đến tận nơi cứu chữa. Tiếng đồn Cuội có phép lạ lan đi khắp nơi.

Một hôm, Cuội lội qua sông gặp xác một con chó chết trôi. Cuội vớt lên rồi giở lá trong mình ra cứu chữa cho chó sống lại. Con chó quấn quít theo Cuội, tỏ lòng biết ơn. Từ đấy, Cuội có thêm một con vật tinh khôn làm bạn.

Một lần khác, có lão nhà giàu ở làng bên hớt hải chạy đến tìm Cuội, vật nài xin Cuội cứu cho con gái mình vừa sẩy chân chết đuối. Cuội vui lòng theo về nhà, lấy lá chữa cho. Chỉ một lát sau, mặt cô gái đang tái nhợt bỗng hồng hào hẳn lên, rồi sống lại. Thấy Cuội là người cứu sống mình, cô gái xin làm vợ chàng. Lão nhà giàu cũng vui lòng gả con cho Cuội.

Vợ chồng Cuội sống với nhau thuận hòa, êm ấm thì thốt nhiên một hôm, trong khi Cuội đi vắng, có bọn giặc đi qua nhà Cuội. Biết Cuội có phép cải tử hoàn sinh, chúng quyết tâm chơi ác. Chúng bèn giết vợ Cuội, cố ý moi ruột người đàn bà vứt xuống sông, rồi mới kéo nhau đi. Khi Cuội trở về thì vợ đã chết từ bao giờ, mớm bao nhiêu lá vẫn không công hiệu, vì không có ruột thì làm sao mà sống được.

Thấy chủ khóc thảm thiết, con chó lại gần xin hiến ruột mình thay vào ruột vợ chủ. Cuội chưa từng làm thế bao giờ, nhưng cũng liều mượn ruột chó thay ruột người xem sao. Quả nhiên người vợ sống lại và vẫn trẻ đẹp như xưa. Thương con chó có nghĩa, Cuội bèn nặn thử một bộ ruột bằng đất, rồi đặt vào bụng chó, chó cũng sống lại. Vợ với chồng, người với vật lại càng quấn quít với nhau hơn xưa.

Nhưng cũng từ đấy, tính nết vợ Cuội tự nhiên thay đổi hẳn. Hễ nói đâu là quên đó, làm cho Cuội lắm lúc bực mình. Ðã không biết mấy lần, chồng dặn vợ: “Có đái thì đái bên Tây, chớ đái bên Ðông, cây dông lên trời!”. Nhưng vợ Cuội hình như lú ruột, lú gan, vừa nghe dặn xong đã quên biến ngay.

Một buổi chiều, chồng còn đi rừng kiếm củi chưa về, vợ ra vườn sau, không còn nhớ lời chồng dặn, cứ nhằm vào gốc cây quý mà đái. Không ngờ chị ta vừa đái xong thì mặt đất chuyển động, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào. Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời.

Vừa lúc đó thì Cuội về đến nhà. Thấy thế, Cuội hốt hoảng vứt gánh củi, nhảy bổ đến, toan níu cây lại. Nhưng cây lúc ấy đã rời khỏi mặt đất lên quá đầu người. Cuội chỉ kịp móc rìu vào rễ cây, định lôi cây xuống, nhưng cây vẫn cứ bốc lên, không một sức nào cản nổi. Cuội cũng nhất định không chịu buông, thành thử cây kéo cả Cuội bay vút lên đến cung trăng.

Từ đấy Cuội ở luôn cung trăng với cả cái cây quý của mình. Mỗi năm cây chỉ rụng xuống biển có một lá. Bọn cá heo đã chực sẵn, khi lá xuống đến mặt nước là chúng tranh nhau đớp lấy, coi như món thuốc quý để cứu chữa cho tộc loại chúng. Nhìn lên mặt trăng, người ta thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, người ta gọi cái hình ấy là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa….

Nói nhăng nói cuội

—o—

Thằng Cuội ngồi gốc cây đa
Ăn cơm với cá, thèm cà với dưa

—o—

Thằng Cuội đứng giữa cung trăng
Cầm rìu cầm rựa đốn săng, kiền kiền

—o—

Hỡi cô yếm trắng cổ là
Chồng cô cô bỏ ở nhà đi chơi
Thế gian chẳng có ai cười
Trong trăng có chú Cuội cười nhe răng

—o—

Chú Cuội đi cày
Cái sẻ mang cơm
Mang đến đầu bờ
Xới xới đơm đơm
Trình anh nghỉ lại
Xơi cơm em về
Cơm thì trên sống dưới khê
Muốn sống đem về kẻo chết với ông!

—o—

Bắc thang lên đến cung mây
Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời?
Cuội nghe thấy nói, Cuội cười:
Bởi hay nói cuội, phải ngồi gốc cây

—o—

Một trăng có mấy cuội ngồi
Một gương tuấn kiệt mấy người soi chung

—o—

Thằng Cuội ngồi gốc cây đa
Thò chân xuống giếng được ba đồng tiền
Một đồng mua trống mua kèn
Một đồng mua mỡ đốt đèn thờ vua
Một đồng mua bó rau khoai
Thái ra cho nhỏ, thờ hai ông bà

—o—

Em là con gái nhà giàu
Mẹ cha thách cưới ra màu xinh sao
Cưới em trăm tấm gấm đào
Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời
Tráp tròn dẫn đủ trăm đôi
Ống thuốc bằng bạc, ống vôi bằng vàng
Sắm xe tứ mã đem sang
Để quan viên họ nhà nàng đưa dâu
Ba trăm nón Nghệ đội đầu
Một người một cái quạt Tàu thật xinh
Anh về sắm nhiễu Nghi Ðình
May chăn cho rộng ta mình đắp chung
Cưới em chín chĩnh mật ong
Mười cót xôi trắng, mười nong xôi vò
Cưới em tám vạn trâu bò
Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm
Lá đa mặt nguyệt hôm rằm
Răng nanh thằng Cuội, râu hàm Thiên Lôi
Gan ruồi mỡ muỗi cho tươi
Xin chàng chín chục con dơi góa chồng
Thách thế mới thỏa trong lòng
Chàng mà lo được thiếp cùng theo chân

—o—

Chú Cuội ngồi gốc cây đa
Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên
Ông thì cầm bút, cầm nghiên
Ông thì cầm tiền đi chuộc lá đa

—0—

Thằng Cuội ngồi gốc cây đa
Để trâu ăn lúa, gọi cha ời ời

Cha còn cắt cỏ trên trời

Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên

Ông thời cầm bút cầm nghiên

Ông thời cầm tiền đi chuộc lá đa

Thằng Cuội chết tối hôm qua

Đánh trống, đánh phách đưa ma ra đồng

—o—

Tôi là con gái bán dưa
Tôi đi đến chợ, chợ trưa mất rồi
Buồn này chẳng phải mình tôi
Trên trời có chú Cuội ngồi nhe răng

CÂY ĐA

Cây đa, giếng nước, sân đình

—o—

Thần cây đa, ma cây gạo

—o—

Con đò với gốc cây đa
Cây đa muôn thuở chẳng xa con đò

—o—

Ở cho phải phải phân phân
Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa
Thương người người lại thương ta
Ghét người thì lại hóa ra ghét mình

—o—

Cây đa bến cũ năm xưa
Chữ tình ta cũng đón đưa trọn đời.
—o—
Thương nhau ở dưới gốc đa
Còn hơn ở cả ngôi nhà trăm gian
—o—
Cây da Chợ Đũi nay nó trụi lủi, trốc gốc, mất tàn
Tình xưa còn đó, ngỡ ngàng nan phân
—o—

Anh về bán đất cây đa
Bán cặp trâu già mới cưới đặng em
– Anh về bán một bầy gà
Anh qua anh cưới hết cả bà lẫn con.

—0—

Làm thơ mà dán cây đa
Thiên hạ không biết, nói ta với nàng
Làm thơ mà dán cây bàng
Thiên hạ không biết, nói nàng với ta

—o—
Lá đa rụng xuống sân đình
Lơ thơ có kẻ thất tình mà hư
—o—

Đom đóm bay qua
Gió đập cành đa
Gió đánh cành đa
Thầy tưởng rằng ma
Thầy ù thầy chạy
Ba thằng ba gậy
Đi đón thầy về

—o—

Cây đa cũ, con én rũ, cây đa tàn
Bao nhiêu lá rụng anh thương nàng bấy nhiêu

—0—
Cây đa ba nhánh chín chồi
Ai về Thông Lạng cạp cồi lồ ngô
—o—
Tru một mà cột cơn đa
Tru đôi ăn kẹ, tru ba ăn cồn
—o—
Trên vườn rau cải, dưới lại rau cần
Cây mơ cây mận ở gần bờ ao
Đầu làng có cây đa cao
Trăng thanh gió mát lọt vào tận nơi
Nhà anh có cái giếng khơi
Nhác trông xuống giếng có đôi cành hồng
Em nay là gái chưa chồng
Anh không có vợ, dốc lòng chờ nhau
—o—
Hỡi chàng da trắng tóc dài
Em đã chờ đợi một hai năm trời
Cho nên mặt ủ chẳng tươi
Sợ chúng bạn cười chẳng dám nói ra
Nhớ chàng lòng những xót xa
Làm thơ mà dán cây đa giữa đồng
Phòng khi qua lại chàng trông
Thời chàng mới thấu nõi lòng nhớ thương
Mối sầu là mối tơ vương
Ai mà gỡ khỏi thiếp thương trọn đời
—o—
Con ve kêu trên cành mít mục
Con sùng nó đục trên nhánh cây đa
Bớ người có mẹ không cha
Vô đây kết nghĩa giao hòa cùng anh
—o—
Cây đa tróc gốc, cái miễu chổng khu
Gặp em đây anh giỡn lu bù
Chừng nào chồng của em hay được thì ở tù anh cũng ưng
—o—
Phượng hoàng đậu cành cây đa
Sa cơ thất thế lủi theo bầy gà
—o—
Đầu làng cây duối,
Cuối làng cây đa
Cây duối anh để làm nhà
Cây đa bóng mát nàng ra anh chào
Đôi tay nâng cái khăn đào
Bằng khi hội hát anh trao cho nàng
Túi anh những bạc cùng vàng
Để anh kéo nhẫn cho nàng đeo tay
Dù ai bấu chí nàng bay
Thì nàng phải giữ nhẫn này cho anh
Dù ai bẻ lá vin cành
Thì nàng phải nhớ lời anh dặn dò
—o—
Đầu làng cây duối,
Cuối làng cây đa
Ngõ em cây nhãn,
Ngõ ta cây đào
Có thương mới bước chân vào
Không thương có đón có chào cũng không
—o—
Đầu làng cây duối,
Cuối ngõ cây đa
Đàng cái ngã ba,
Anh đây thợ hàn
Con gái mười bảy hăm ba
Hai mươi, hăm mốt đem ra anh hàn
Nụ này lớn lỗ hao than
Đồng đâu anh đổ cho tràn lỗ ni
Hết đồng, thì anh pha chì
Anh hàn cho một chặp chì ì mặt ra
—o—
Cây tùng cây bá anh chê,
Cây đa, cây dứa sum suê anh dùng.
—o—

Tháng bảy ông thị đỏ da
Ông mít chơm chởm, ông da rụng rời
Ông mít đóng cọc đem phơi
Ông da rụng rời đỏ cả chân tay

Lễ hội thu

– 10/8 : Chọi trâu là một môn thể thao truyền thống thường xuất hiện trong các lễ hội dân gian ở nước ta. Trong trận đấu, các “đấu thủ” trâu lao vào húc nhau cho đến khi có con chết hoặc bỏ cuộc. Lễ hội chọi trâu được tổ chức nhiều nơi, nhưng nổi tiếng và quy mô nhất lớn nhất là lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn (Hải Phòng), diễn ra vào ngày 9 tháng 8 âm lịch hàng năm.

Dù ai buôn đâu bán đâu
Mồng mười tháng tám chọi trâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Mồng mười tháng tám trở về chọi trâu

– Mễ Sở, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Nơi đây nổi tiếng với truyền thuyết Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung, hàng năm đều làm lễ lớn vào tháng hai âm lịch.

Mình về đường ấy thì xa
Có về tổng Mễ với ta thì về
Tổng Mễ có ao rửa chân
Có sông tắm mát, có đình nghỉ ngơi
Tháng tám thì đi xem bơi
Tháng hai xem rước mình ơi hỡi mình

MÙA THU

TRĂNG THU

Chân chàng tới cảnh đình trung
Chào mừng sẽ hỏi anh hùng tài cao
Rằng đây thu cúc, xuân đào
Mơ qua mận lại, gió chào trăng thu

—o—

Đường trường cách trở ngàn xa
Lấy ai tin tức để mà hỏi han
Một mình em giữ phòng loan
Trăng thu, nguyệt tỏ, giãi gan héo dầu
Trách ai cắt bỏ nhịp cầu
Để cho lòng thiếp thảm sầu đắng cay
Đố ai giải được lòng này
Có ai cởi mối sầu này cho không
Mỗi ngày đứng cửa dõi trông
Trách ai chín hẹn những không cả mười

—o—

Mình rằng mình quyết lấy ta
Ðể ta hẹn cưới hăm ba tháng này
Hăm ba nay đã đến ngày
Ta hẹn mình rày cho đến tháng giêng
Tháng giêng năm mới chưa nên
Ta hẹn mình liền cho đến tháng hai
Tháng hai có đỗ có khoai
Ta lại vật nài cho đến tháng tư
Tháng tư ngày chẵn tháng dư
Ta lại chần chừ cho đến tháng năm
Tháng năm là tháng trâu đầm
Ta hẹn mình rằng tháng sáu mình lên
Tháng sáu lo chửa kịp tiền
Bước sang tháng bảy lại liền mưa ngâu
Tháng bảy là tháng mưa ngâu
Bước sang tháng tám lại đầu trăng thu
Tháng tám là tháng trăng thu
Bước sang tháng chín mù mù mưa rươi
Tháng chín là tháng mưa rươi
Bước sang tháng mười đã đãi mưa đông
Quanh đi quẩn lại em đã có chồng
Như chim trong lồng, như cá cắn câu

—o—

Xin anh nghĩ lại kẻo nhầm
Lòng em vằng vặc như rằm giăng thu
Giăng trung thu còn có khi mờ
Lòng em vằng vặc bao giờ cho phai

Gió thu

Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chầy thức đủ vừa năm

—o—

Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Chăn huyên đường ấp ủ năm canh
Con nay tuổi trẻ đầu xanh
Lớn lên con phải đua tranh với đời
Đã sinh ra kiếp làm người
Gom tài góp sức cùng đời đua chen

Sinh con

Thu đi để lại lá vàng
Anh đi để lại cho nàng thằng cu
Mùa thu tiếp nối mùa thu
Thằng cu tiếp nối thằng cu ra đời

Đêm thu

Ao thu nước gợn trong vời
Gió thu khêu dục gợi người tình chung
Buồn tênh cái tiếng thu chung
Đêm thu ta biết vui cùng với ai
Thờ ơ trúc muốn ghẹo mai
Vô tình nên phải miệt mài đêm thu

Rau thu

Cuối thu trồng cải trồng cần
Ăn ròng sáu tháng cuối xuân thì tàn
Bây giờ rau muống đã lan
Lại ăn cho đến thu tàn thì thôi
Mùa nào thức ấy lần hồi

Lọ là đem của cho người ta ăn.

Hoa cúc

Trăm hoa đua nở mùa xuân
Cớ sao hoa cúc lại muộn tuần thu sang?
– Vì hoa tham lấy sắc vàng
Cho nên hoa phải muộn màng tiết thu

Qủa thị

Đừng chê tôi xấu tôi già
Tôi đi bán thị, mọi bà mọi hôn

—o—

Xoài giòn, mít dẻo, thị dai
Làm thân trâu ngựa chẳng nài gian lao

—o—

Thò tay ngắt ngọn xoan đào
Muốn ăn thị chín thì vào rừng xanh
Thuyền ai ghé xuống bến ghềnh
Phải thuyền chú lái cho em ngồi nhờ

—o—

Con tôi buồn ngủ buồn nghê
Buồn ăn cơm nếp cháo kê thịt gà
Nhà còn có một quả cà
Làm sao đủ miếng cơm và cho con
Con tôi khóc héo, khóc hon
Khóc đòi quả thị méo trôn đầu mùa
Con thèm phẩm oản trên chùa
Con thèm chuối ngự tiến vua của làng
Con thèm gạo cốm làng Ngang
Con thèm ăn quả dưa gang làng Quài
Con thèm cá mát canh khoai
Con thèm xơ mít, thèm tai quả hồng
Con thèm đuôi cá vây bông
Thèm râu tôm rảo, thèm lòng bí đao

—o—

Con tôi buồn ngủ buồn nghê
Buồn ăn cơm nếp cháo kê thịt gà
Nhà còn có một quả cà
Làm sao đủ miếng cơm và cho con
Con tôi khóc héo, khóc hon
Khóc đòi quả thị méo trôn đầu mùa
Con thèm phẩm oản trên chùa
Con thèm chuối ngự tiến vua của làng
Con thèm gạo cốm làng Ngang
Con thèm ăn quả dưa gang làng Quài
Con thèm cá mát canh khoai
Con thèm xơ mít, thèm tai quả hồng
Con thèm đuôi cá vây bông
Thèm râu tôm rảo, thèm lòng bí đao

—o—

Vườn hoa quả thị má hồng
Mận mơ quấn quýt đèo bòng cho cam

—o—

Mình vàng lại mặc áo vàng
Đi ra ngoài đàng ai cũng muốn hôn
Béo tròn mặc áo vàng tươi
Ngày xưa từng có ai người ở trong

Là quả gì?
—o—
Buổi sáng ngủ dậy
Ăn bụng cơm no
Chạy ra ngoài gò
Bắt một con công
Đem về biếu ông
Ông cho trái thị
Đem về biếu chị
Chị cho bánh khô
Đem về biếu cô
Cô cho bánh ú
Đem về biếu chú
Chú cho buồng cau
Nay chừ chú thím giận nhau
Đem trả buồng cau cho chú
Trả bánh ú cho cô
Trả bánh khô cho chị
Trả trái thị cho ông
Bắt con công, đem về nhà

Quả bưởi

Sung ngái một lòng
Bưởi bòng một dạ

—o—

E sau lòng lại đổi lòng
Nhiều tay tham bưởi chê bòng lắm anh

—o—

Dạ anh, dạ bưởi dạ bòng
Ngoài da xanh lét, trong lòng chua le

—o—

Trèo lên cây bưởi ngắt quả thanh yên
Duyên em bán mấy, anh kiếm tiền anh mua
– Duyên em bán thiệt ba trăm
Anh mua chi nổi mà hỏi thăm rộn ràng

—o—

Đầu năm ăn quả thanh yên
Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bòng
Vì cam cho quýt phải lòng
Vì em nhan sắc cho lòng anh thương.

—o—

Qua tỉ như chùm gởi đáp nhờ
 vô nhánh bưởi nọ đặng nhờ hưởng hơi

—o—

Trèo lên cây bưởi hái bòng
Đưa dao ta gọt xem lòng ngọt chua
Bòng em không ngọt không chua
Tiền trăm bạc núi chưa mua được bòng

—o—

Thân em như bông bưởi trắng ròng
Tuy mùi thơm ngát mà lòng sạch trong
Qua tỷ như chùm gửi đáp nhờ
 vô nhánh bưởi nọ, đặng chờ hưởng hơi

Quả na

Ăn một quả na
Bằng ba quả quýt
Tôi ngồi nói thiệt
Quả quýt thì chua
Bắt vua phải trả
Quả vả thì chát
Tôi tát mặt quan
Quan chạy la làng
Quăng đi quả quýt
Quăng đi quả vả
Trả về quả na

Qủa hồng

Chích chòe chích chòe
Mày hót tao nghe
Mày ru tao ngủ
Tao ngủ cho say
Mẹ tao đi chợ tây
Mẹ tao đi chợ đông
Mua về cho tao ba quả hồng
Tao cho chích chòe một quả

—o—

Con gái má mọng quả hồng
Không giữ vững thế, nó lồng chết tươi
Nghiến răng: đá bể làm đôi
Chém sông sông đứt, chém đồi đồi tan

—o—
Tiền một đồng mà đòi hồng không hột
—o—
Hai ta ăn một quả hồng
Giấu cha, giấu mẹ, giấu chồng mà ăn
—o—
Tiếc quả hồng ngâm mà đem cho chuột vọc
Tiếc con người ngọc mà đem cho ngâu vày
Tiếc của Nam ta xây dựng, để cho Tây tung hoành
—o—
Gắng công kén hộ cốm Vòng
Kén hồng Bạch Hạc cho lòng ai vui
Trách ai lòng dạ đổi thay
Hồng nay để thối, cốm này để thiu.
—o—
Hai tay cầm hai quả hồng
Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai
Nằm đêm vuốt bụng thở dài
Thương chồng thì ít, thương trai thì nhiều
—o—

Cam sành chê đắng, chê hôi
Hồng rim chê lạt, cháo bồi khen ngon.

—o—
Mình nói dối ta mình chửa có chồng
Ðể ta mang cốm mang hồng sang sêu
Ta sang mình có chồng rồi
Ðể cốm ta mốc, để hồng long tai
Ngỡ là long một long hai
Ai ngờ long cả trăm hai quả hồng
—o—
Thà rằng ăn nửa quả hồng
Còn hơn ăn cả chùm sung chát lè
—o—
Con tôi buồn ngủ buồn nghê
Buồn ăn cơm nếp cháo kê thịt gà
Nhà còn có một quả cà
Làm sao đủ miếng cơm và cho con
Con tôi khóc héo, khóc hon
Khóc đòi quả thị méo trôn đầu mùa
Con thèm phẩm oản trên chùa
Con thèm chuối ngự tiến vua của làng
Con thèm gạo cốm làng Ngang
Con thèm ăn quả dưa gang làng Quài
Con thèm cá mát canh khoai
Con thèm xơ mít, thèm tai quả hồng
Con thèm đuôi cá vây bông
Thèm râu tôm rảo, thèm lòng bí đao

Quả nhãn

Quả nhãn lồng trong bọc ngoài bao
Chim còn ăn được huống đào bỏ rơi
—o—

Nhỡn lồng trong bọc ngoài bao,
Con ong châm còn được huống chi quả hồng đào chín cây

Quả cam

Anh đi em có dặn phòng
Chua cam chớ phụ, ngọt bòng chớ ham

—o—

Chàng về nỏ có chi đưa
Quả cam đang bé, quả dừa đang non

—o—

Cam sen, quýt ngọt người chê
Người ăn khế rụng, tôi ghê thay người!
Quả quýt chín kia ai chả muốn chòi
Chòi ra thì nể lòng người có cây
Vườn kia khế rụng đã đầy

—o—

Buôn cam, anh tới Xã Đoài
Quả cam đã ngọt, con ngài cũng xinh
Bây giờ tình đã tỏ tình
Ta thương mình lắm, biết mình thương ai?
– Em về chợ Rộ buôn khoai
Khoai bùi, khoai ngọt, con ngài cũng xinh
Bây giờ tình đã tỏ tình
Mình thương ta, ta thương mình ngại chi!

 

THÁNG TÁM SẢN VẬT

THÁNG 8 NGÔ

Tháng sáu anh đi buôn bè
Tháng bảy tháng tám trở về buôn ngô

—o—

Tháng ba buôn đỗ, buôn mè
Tháng tám bẻ bắp xuống ghe ào ào
Gá lời kêu bớ lão cắm sào
Ghe sao chở khẳm, bộ hành nào dám đi?

—o—

Một năm chia mười hai kì
Em ngồi em tính khó gì chẳng ra
Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng hai rỗi rãi quay ra nuôi tằm
Tháng ba đi bán vải thâm
Tháng tư đi gặt, tháng năm trở về
Tháng sáu em đi buôn bè
Tháng bảy tháng tám trở về đong ngô
Chín, mười cắt rạ đồng mùa
Một, chạp vớ được anh đồ dài lưng
Anh ăn rồi anh lại nằm
Làm cho em phải quanh năm lo phiền
Chẳng thà lấy chú lực điền
Gạo bồ thóc đống còn phiền nỗi chi?

THÁNG 8 LÚA

Nhà giàu mua vải tháng ba
Bán gạo tháng tám mới ra nhà giàu

—0—

Tháng tám đói qua, tháng ba đói chết

—o—

Khó thay công việc nhà quê
Quanh năm khó nhọc dám hề khoan thai
Tháng chạp thì mắc trồng khoai
Tháng giêng trồng đậu tháng hai trồng cà
Tháng ba cày vỡ ruộng ra
Tháng tư bắc mạ thuận hòa mọi nơi
Tháng năm gặt hái vừa rồi
Bước sang tháng sáu lúa trôi đầy đồng
Nhà nhà vợ vợ chồng chồng
Đi làm ngoài đồng sá kể sớm trưa
Tháng sáu tháng bảy khi vừa
Vun trồng giống lúa bỏ chừa cỏ tranh
Tháng tám lúa giỗ đã đành
Tháng mười cắt hái cho nhanh kịp người
Khó khăn làm mấy tháng trời
Lại còn mưa nắng thất thời khổ trông
Cắt rồi nộp thuế nhà công
Từ rày mới được yên lòng ấm no.

—o—

Tháng năm đau máu
Tháng sáu đau chân
Tháng tám ngồi dưng
Ăn cơm trá bữa
Cơm ăn, cơm dỡ
Mẹ ngỡ đi đâu
Tắm táp, gội đầu
Đi xem voi ỉa!

—o—

Tháng giêng thì lúa xanh già
Tháng hai lúa trổ, tháng ba lúa vàng
Tháng tư cuốc đất trồng lang
Tháng năm cày cuốc tiếng nàng hò lơ
Tháng sáu làm cỏ dọn bờ
Tháng bảy trổ cờ, tháng tám chín thơm
Gặt về đạp lúa phơi rơm
Mồ hôi đổi lấy bát cơm hàng ngày
Lúa khô giê sạch cất ngay
Chỗ cao ta để phòng ngày nước dâng
Mùa đông mưa bão nhiều lần
Nàng xay, chàng giã cùng ngân tiếng hò
Tháng mười cày cấy mưa to
Trông trời, trông đất cầu cho được mùa

—o—

THÁNG 8 ĐÀN BÀ

Tháng tám đàn bà sinh câm,
Giần, sàng sứt cạp, chó thâm xương sườn

THÁNG 8 TRE

Ná tháng ba hơn tre già tháng tám

THÁNG 8 CÒ

Co ro như cò tháng tám

THÁNG 8 CHÓ

Chó mùa thu, tru mùa hè
Người thì nhè bát tiết

Bát tiết là 8 tiết khí lập xuân, xuân phân, lập hạ, hạ chí, lập thu, thu phân, lập đông, đông chí

NGÀY 3 THÁNG 8 & THÁNG 3 NGÀY 8

THÁNG 3 NGÀY 8

Tháng ba ngày tám rỗi ràng
Làm sao đủ gạo mùa màng khỏi lo

—o—

NGÀY 3 THÁNG 8

Ngày mùa tưới đậu trồng khoai
Ngày ba tháng tám mới ngồi mà ăn.

—o—

Bởi anh chăm việc canh nông
Cho nên mới có bồ trong bịch ngoài
Ngày mùa tưới đậu trồng khoai
Ngày ba tháng tám mới ngồi mà ăn

THÁNG TÁM THỜI TIẾT

THÁNG 8 GIÓ

Tháng tám trời thổi gió nồm
Tháng ba đông bắc có làm không ăn

—o—

Tháng Bảy gió đập cành đào
Bước sang tháng Tám đánh vào cành mai

—o—

Tháng giêng là gió hây hây
Tháng hai gió mát, trăng bay vào đền
Tháng ba gió đưa nước lên
Tháng tư gió đánh cho mềm ngọn cây
Tháng năm là tiết gió tây
Tháng sáu gió mát cấy cày tính sao
Tháng bảy gió lọt song đào
Tháng tám là tháng tạt vào hôm mai
Tháng chín là tháng gió ngoài
Tháng mười là tháng heo may rải đồng
Tháng một gió về mùa đông
Tháng chạp gió lạnh gió lùng, chàng ơi
Mười hai tháng gió tôi đã họa rồi
Mưa đâu, chàng họa một bài cùng nghe!

THÁNG 8 BÃO LỤT

Tháng tám đâm chèo vô bụi

—o—

Tháng ba tháng tám đi đâu
Bỏ đê không đắp rồi sau kêu trời
Chém cha lũ kiến vô loài
Dám đem đê đó làm mồi kiến ăn
Một mai nước vỡ đến chân
Chẳng qua chỉ lũ nông dân thiệt thòi

THÁNG 8 MƯA TRƯỜNG, MƯA CƠN

Tháng ba mưa đám
Tháng tám mưa cơn

—o—

– Bạn hẹn với ta mùng bốn tháng giêng
Trông hoài không thấy bạn hiền vãng lai
Bạn hẹn với ta mùng bốn tháng hai
Tiết xuân con én đưa thoi đã rồi
Tháng ba, tháng tư ta không thấy bạn thời thôi
Chim kêu thỏ thẻ trước nơi sân hòe
Tháng năm, tháng sáu ta chẳng thấy nhắn nhe
Chim kêu nhỏ nhẻ, mùa hè sang thu
Chim kêu, vượn hú, cu gù
Cây khô lá rụng, mịt mù tang thương
Tháng bảy, tháng tám, tháng chín mưa trường
Đến khi ta nhắn gửi, hết lời ta lại qua
Tháng mười, tháng mười một, nước chảy mưa sa
Đương khi tiết lạnh bạn với ta xa vời
Còn mình tháng chạp bạn ơi
Niên tàn nguyệt tận, bạn phải tính cho rồi mưu chi?
Về nhà ngửa bàn tay tính lại đính đi
Tháng thời mười hai tháng, mùa y bốn mùa
Chuỗi sầu ai khéo thêu thùa
Đớn đau dạ ngọc, xót chua gan vàng! 

THÁNG 8 NẮNG

Mưa tháng bảy gãy cành trám
Nắng tháng tám rám cành bưởi

—o—

Tháng giêng là nắng hơi hơi
Tháng hai là nắng giữa trời nắng ra
Thứ nhất là nắng tháng ba
Tháng tư có nắng nhưng mà nắng non
Tháng năm nắng đẹp nắng giòn
Tháng sáu có nắng bóng tròn về trưa
Tháng bảy là nắng vừa vừa
Tháng tám là nắng tờ ơ thế này
Tháng chín nắng gắt nắng gay
Tháng mười có nắng, nhưng ngày nắng không
Tháng một là nắng mùa đông
Tháng chạp có nắng nhưng không có gì

—o—

Tháng giêng thì nắng hơi hơi
Tháng hai thì nắng tuyết giời nắng ra
Tháng ba được trận nắng già
Tháng tư có nắng nhưng mà nắng non
Tháng năm nắng đẹp nắng ròn
Tháng sáu có nắng bóng tròn về trưa
Tháng bảy vừa nắng vừa mưa
Tháng tám còn nắng nhưng chưa ngắn ngày
Tháng chín nắng ớt, nắng cay
Tháng mười có nắng nhưng ngày ngắn hơn

—o—

Tháng năm, tháng sáu, mặt trời đi chệch
Tháng bảy, tháng tám, mặt trời đi xiên
Em là phận gái thuyền quyên
Đừng cho sóng dợn, đò nghiêng nước vào
Đò nghiêng sóng dợn ba đào
Trong dễ thấy đục, đục nào thấy trong

 

 

Chia sẻ:
Scroll to Top