THÁNH GIÓNG

Loading

CA DAO, TỤC NGỮ VỀ ĐỨC THÁNH GIÓNG
Cơn như cơn đức Thánh Gióng
—o—
Nắng ông Từa, mưa ông Gióng
Kinh nghiệm dân gian, cứ vào ngày hôị thánh Từa (tức Từ Đạo Hạnh) mồng 7 tháng 3 âm lịch thì thể nào cũng nắng to, còn vào hội Gióng mồng 9 tháng 4 âm lịch thì có mưa giông.
—o—
Hội Dâu đã tàn, hội Gióng đã tan
Ai còn hồng nhan thì về hội Bưởi
—o—
Râm râm hội Khám
U ám hội Dâu
Vỡ đầu hội Gióng
—o—
Trèo lên cây gạo cao cao
Bước xuống hội Gióng vui sao vui vầy
Giáo gươm cờ xí trùng trùng
Hằng năm mở hội tưng bừng vui thay
Nhớ xưa Thánh Gióng tích rày
Uy phong rạng rỡ đến nay còn truyền
—o—
Nhớ xưa đương thuở triều Hùng
Vũ Ninh nổi đám bụi hồng nẻo xa
Trời thương Bách Việt sơn hà
Trong nơi thảo mãng nổi ra kỳ tài
Lên ba đang tuổi anh hài
Roi ngà ngựa sắt ra oai trận tiền
Một phen khói lửa dẹp yên
Sóc Sơn nhẹ gót thần tiên lên trời
—o—
Vè Thánh Gióng :
Nhớ đời thứ sáu Hùng Vương
Ân sai hăm tám tướng cường ngũ nhung
Xâm cương cậy thế khỏe hùng
Kéo sang đóng chặt một vùng Vũ Ninh
Trời cho thánh tướng giáng sinh
Giáng về Phù Đổng ẩn hình ai hay
Mới lên ba tuổi thơ ngây
Thấy vua cầu tướng ngày rày ra quân
Gọi sứ phán bảo ân cần
Gươm vàng, ngựa sắt đề quân tức thì
Thánh vương khi ấy ra uy
Nửa ngày sấm sét, tứ bề giặc tan
Áo thiêng gửi lại Linh san
Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên
Miếu đền còn dấu cố viên
Sử xanh, bia đá tiếng truyền tự xưa
—o—
Cậu Ba kẻ Gióng kia ơi
Sao chăng ở lại mà chơi kinh kì?
Kẻ Gióng Tên Nôm của làng Gióng Mốt, nay thuộc địa phận xã Đặng Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
—o—
Đại Nam Quốc sử Diễn ca (trích đoạn)
Sáu đời Hùng vận vừa suy,
Vũ Ninh có giặc mới đi cầu tài.
Làng Phù Đổng có một người,
Sinh ra chẳng nói, chẳng cười trơ trơ.
Những ngờ oan trái bao giờ,
Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân.
Nghe vua cầu tướng ra quân,
Thoắt ngồi, thoắt nói muôn phần khích ngang.
Lời thưa mẹ, dạ cần vương,
Lấy trung làm hiếu một đường phân minh.
Sứ về tâu trước thiên đình,
Gươm vàng, ngựa sắt đề binh tiến vào.
Trận mây theo ngọn cờ đào,
Ra uy sấm sét, nửa chiều giặc tan.
Áo bào cởi lại Linh San,
Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên.
Đền thiêng còn dấu cố viên,
Sử xưa còn đó lời nguyền còn đây.
—o—o—o—
CÁC TÊN GỌI CỦA ĐỨC THÁNH GIÓNG
– Thánh Gióng
– Đổng Thiên Vương
– Phù Đổng Thiên Vương (Lĩnh Nam Trích Quái)
– Thiết Đổng
– Sóc Thiên Vương (Việt điện u linh tập)
– Sóc Lang (Đền Sóc Lang, Vũ Thư, Thái Bình)
– An Cốc hải khẩu Thiên thượng Đại vương (đền Sóc Lang)
– Đổng Sóc Thiên Vương Huyền Thiên Đại Thánh cứu mẹ (Đền Đông Bộ Đầu, làng Bộ Đẩu, huyện Thường Tín, Hà Nội & chúa Trịnh Kiểm)
– Tỳ Sa Môn Đại Vương (Sự tích liên quan đến Đại Sư Khuông Việt và vua Lê Đại Hành)
– Vệ Linh Sơn Thần (Vệ Linh là núi nơi đức Thánh Gióng bay về trời)
– Thổ Địa chùa Kiến Sơ (Sự tích liên quan đến Thiền sư Chí Thành ở chùa Kiến Sơ và vua Lý Công Uẩn)
– Xung Thiên Thần Vương (Lý Công Uẩn đặt)

—o—o—o—

LƯỢC SỬ THÁNH GIÓNG – THỜI KỲ HÙNG VƯƠNG
HỒNG BÀNG THỊ
– Viêm Đế
– Đế Minh (cháu 3 đời Viêm Đế)
– – – Vợ cả sinh ra Đế Nghi, cai trị phương Bắc
– – – Vợ hai Đỗ Thị Quý/Vụ Tiên/Hương Vân Cái Bồ Tát sinh ra Lộc Tục/Kinh Dương Vương, cai trị phương Nam
—o—
Theo dòng con thứ 2 (ẩn dòng con thứ 1)
– Lộc Tục/Kinh Dương Vương
– – – Ông bà ngoại ở Hồ Tây
– – – Mẹ là Đỗ Thị Quý/Vụ Tiên/Hương Vân Cái Bồ Tát, mộ ở Ba La Bông Đỏ, mẫu Tam Đảo
– – – Các chú là Bát Bộ Kim Cương (em của mẹ)
– – – Vợ là Long Nữ, con Long Vương Động Đình Quân, đền Tiên Cát, Bạch Hạc
– – – Cai trị nước Xích Quỷ phương Nam, kinh đô Nghĩa Lĩnh
– Lạc Long Quân/Hùng Hiền Vương + Âu Cơ/Ẩu Cơ sinh bọc 100 trứng Bách Việt
—o—
HÙNG VƯƠNG
Theo dòng con vua Hùng là theo 1 con, ẩn 99 con
2. Lạc Long Quân/Hùng Hiền Vương + Âu Cơ/Ẩu Cơ sinh bọc 100 trứng Bách Việt
3. Hùng Quốc Vương
4. Hùng Diệp Vương
5. Hùng Hy Vương
6. Hùng Huy Vương
– Giặc Mũi Đỏ (Xích Ty), Ma Lôi (có nơi gộp hai giặc này gọi là giặc Xích Quỷ, trùng với tên nước Xích Quỷ, bởi vì tính theo nước Xích Quỷ thì đây là nội chiến. Giặc Ân cũng xuất hiện trước khi có Thánh Gióng. Các vị bảo vệ đất nước trước Thánh Gióng.
– Thánh Gióng
– Khởi đầu truyền thống bánh trưng, bánh dầy, truyền ngôi cho Lang Liêu
– Mộ ở đền Hùng
Chia rất nhiều quốc gia/vùng đất
– Vùng đất cai trị bởi con vua Hùng, mà không phục Lang Liêu
– Hùng Chiêu Vương
– Nhà Chu (Khương Tử/Đắc Kỷ) đánh nhà Thương, vua Trụ Vương, tách ra từ dòng của Hùng Chiêu Vương
Theo dòng con vua Hùng Chiêu Vương
7. Hùng Chiêu Vương
– Tên Lang Liêu, Tiết Liêu
– Tham gia đánh giặc Ân với Thánh Gióng
– Tạo ra bánh chưng bánh dầy
– Thờ ở đền Dữu Lâu, bờ sông Lô, Việt Trì
8. Hùng Vĩ Vương
9. Hùng Định Vương tại vị 80 năm
10. Hùng Uy Vương tại vị 90 năm
11. Hùng Trinh Vương tại vị 107 năm,
12. Hùng Vũ Vương tại vị 96 năm,
13. Hùng Việt Vương tại vị 105 năm,
14. Hùng Anh Vương tại vị 99 năm,
15. Hùng Triêu Vương tại vị 94 năm,
16. Hùng Tạo Vương tại vị 92 năm, trải qua 16 đại hiệu.
17. Hùng Nghị Vương
– Nhà Thục Ai Lao đánh
18. Hùng Duệ Vương
– Vẫn giữ truyền thống xây thành dạng Cổ Loa (thành lốc xoáy)
– Nhận móng của thần Kim Quy làm nỏ thần
– Con gái Tiên Dung lấy Chử Đồng Tử (Đông)
– Con gái Ngọc Hoa lấy Tản Viên (Tây – Ba Vì)
– Truyền ngôi cho Tản Viên nhưng Tản Viên không nhận, Tản Viên đánh nhà Thục nhưng khuyên vua Hùng nhường ngôi
– Hùng Duệ Vương nhường ngôi An Dương Vương, An Dương Vương nhận cấu trúc Cổ Loa và móng Kim Quy
An Dương Vương
– Xây loa thành, dùng nỏ thần đánh Triệu Đà
– Gả con gái Mỵ Châu cho Trọng Thuỷ, con Triệu Đà
– Mất bí mật nỏ thân
– Mất nước vào tay Triệu Đà, tự tử ở cửa biển
—o—o—o—
TRUYỀN THUYẾT THÁNH GIÓNG
SÓC THIÊN VƯƠNG – VIỆT ĐIỆN U LINH TẬP
Sóc Thiên vương sinh ở một làng kia, lúc còn nằm nôi, trong nước có giặc, vua sai sứ giả đi mộ khắp dân gian xem có ai phá được giặc thì ban cho tước lộc. Thiên vương dậy hỏi mẹ, mẹ mới bảo rõ ràng như vậy, Thánh Gióng nói: “Thế thì mẹ đem nhiều cơm đến đây cho con ăn”.
Chốc lát ăn hết vài chén cơm. Mấy tháng sau, cao lớn hơn trượng, tự ra ứng mộ, Sứ giả đưa đến Kinh sư, vua trông thấy cả mừng hỏi rằng: “Bây giờ ngươi muốn xin gì?” Tâu: “Xin cho tôi một thanh gươm dài, và một con ngựa sắt”.
Vua ban cho, rồi Vương cầm gươm nhảy lên ngựa, hét lên một tiếng, xông vào trong trận, chém quân giặc chết ngổn ngang. Giặc tan rồi, bờ cõi được yên lặng. Thiên vương phi ngựa về núi Vệ Linh, trèo lên cây đa mà bay lên trời, để áo và dấu tích lại, đến nay (thời Trần) vẫn còn, người trong thôn gọi cây ấy là cây Dịch Phục. Người trong nước lấy làm lạ, lập đền thờ tế, dùng trà bánh đồ chay mà cúng, nếu có cầu khấn việc gì đều được linh ứng.
—o—
​PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG – LĨNH NAM TRÍCH QUÁI
Hùng Vương cậy nước mình giàu mạnh, mà chểnh mảng việc triều cận Bắc phương. Vua nhà Ân(1766 TCN – 1122 TCN) mượn cớ tuần thú sang xâm lược. Hùng Vương nghe tin, triệu tập quần thần hỏi kế công thủ. Có người phương sĩ tâu rằng: “Sao không cầu Long Vương đưa quân âm lên giúp!” Vua nghe lời, bèn lập đàn, bày vàng bạc lụa là lên trên, ăn chay, thắp hương, cầu đảo ba ngày. Trời nổi mưa to gió lớn, bỗng thấy một cụ già cao hơn chín thước, mặt vàng bụng lớn, mày râu bạc trắng, ngồi ở ngã ba đường mà cười nói ca múa. Những người trông thấy biết là kẻ phi thường, mới vào tâu vua. Vua thân hành ra vái chào, rước vào trong đàn. Cụ già không ăn uống cũng không nói năng. Vua nhân hỏi: “Nghe tin quân Bắc sang xâm lược, ta thua được thế nào, ngài có kiến văn xin bảo giúp”. Cụ già ngồi im một lúc, rút thẻ ra bồi, bảo vua rằng: “Ba năm nữa giặc Bắc sẽ sang, phải nghiêm chỉnh khí giới, tinh luyện sĩ binh mà giữ nước, lại phải đi tìm bậc kỳ tài trong thiên hạ, kẻ nào phá được giặc thì phân phong tước ấp, truyền hưởng lâu dài. Nếu được người giỏi, có thể dẹp được giặc vậy”.
Dứt lời, bay lên không mà đi, mới biết đó là Long Quân. Ba năm sau, người biên giới cấp báo có giặc Ân tới. Vua làm theo lời cụ già dặn, sai sứ đi khắp các nơi cầu hiền tài. Tới làng Phù Đổng, có một phú ông tuổi hơn sáu mươi, sinh được một người con trai vào giữa ngày mồng 7 tháng giêng, ba tuổi còn không biết nói, nằm ngửa không ngồi dậy được. Người mẹ nghe tin sứ giả tới mới nói dỡn rằng: “Sinh được thằng con trai này chỉ biết ăn, không biết đánh giặc để lấy thưởng của triều đình, báo đáp công bú mớm”. Người con nghe thấy mẹ nói, đột nhiên bảo: “Mẹ gọi sứ giả tới đây”. Người mẹ rất lấy làm kinh ngạc, kể lại với hàng xóm. Hàng xóm cả mừng, tức tốc gọi sứ giả tới. Sứ giả hỏi: “Mày là đứa trẻ mới biết nói, mời ta đến làm gì?”.
Đứa trẻ nhỏm dậy bảo sứ giả rằng: “Mau về tâu với vua rèn một ngựa sắt cao mười tám thước, một thanh kiếm sắt dài bảy thước, một roi sắt và một nón sắt. Ta cưỡi ngựa đội nón ra đánh, giặc tất phải kinh bại, vua phải lo gì nữa?”
Sứ giả mừng rỡ vội về tâu vua. Vua vừa kinh vừa mừng nói rằng: “Ta không lo nữa”.
Quần thần tâu: “Một người thì làm sao mà đánh bại được giặc?” Vua nổi giận nói: “Lời nói của Long Quân ngày trước không phải là ngoa, các quan chớ nghi ngờ gì nữa! Mau đi tìm năm mươi cân sắt luyện thành ngựa, kiếm, roi và nón”.
Sứ giả tới gặp, người mẹ sợ hãi cho rằng tai họa đã đến, bèn bảo người con. Con cả cười bảo rằng: “Mẹ hãy đưa nhiều cơm rượu cho tôi ăn, việc đánh giặc mẹ chớ có lo”. Người con lớn lên rất nhanh, ăn uống tốn rất nhiều, người mẹ cung đốn không đủ. Hàng xóm sửa soạn trâu rượu bánh quả rất nhiều mà người con ăn vẫn không no bụng. Vải lụa gấm vóc rất nhiều mà mặc vẫn không kín thân, phải đi lấy hoa lau buộc thêm vào cho kín người. Kíp đến lúc quân nhà Ân tới chân núi Trâu Sơn ở Vũ Ninh, người con duỗi chân đứng dậy cao hơn 10 thước (có chỗ nói là trượng), ngửa mũi hắt hơi liền hơn mười tiếng, rút kiếm thét lớn: “Ta là thiên tướng đây!” rồi đội nón cưỡi ngựa. Ngựa chồm lên, hí dài một tiếng mà phi như bay, nháy mắt đã tới trước quân vua, vỗ kiếm đi trước, quan quân đều theo sau, tiến sát đồn giặc. Quân giặc bỏ chạy, còn lại tên nào đều la bái kêu lạy Thiên tướng rồi cùng đến hàng phục. Ân vương bị chết ở trong trận.
Đi đến đất Sóc Sơn huyện Kim Hoa, Thiên tướng cởi áo cưỡi ngựa mà lên trời, hôm đó là ngày mồng 9 tháng 4, còn để vết tích ở hòn đá trên núi. Hùng Vương nhớ công ơn đó mới tôn là Phù Đổng Thiên vương, lập miếu thờ ở nhà cũ trong làng, lại ban cho một ngàn mẫu ruộng, sớm hôm hương lửa. Nhà Ân đời đời, 644 năm không dám ra quân.
Sau Lý Thái Tổ phong làm Xung Thiên Thần vương, lập miếu ở làng Phù Đổng cạnh chùa Kiến Sơ, lại tạc tượng ở núi Vệ Linh, xuân thu hai mùa tế lễ.
—o—
THÁNH GIÓNG – ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ
Đời Hùng Vương thứ 6, ở hương Phù Đổng, bộ Vũ Ninh có người nhà giàu, sinh một con trai, đến năm hơn ba tuổi ăn uống béo lớn nhưng không biết nói cười. Gặp lúc trong nước có tin nguy cấp, vua sai người đi tìm người có thể đánh lui được giặc. (Toàn thư không ghi đây là giặc Ân như Lĩnh Nam chích quái).
Ngày hôm ấy, đứa trẻ bỗng nói được, bảo mẹ ra mời sứ giả vào, nói: “Xin cho một thanh gươm, một áo giáp sắt và một con ngựa, vua không phải lo gì”. Vua ban cho gươm và ngựa, đứa trẻ liền phi ngựa vung gươm tiến lên trước, quan quân theo sau, đánh tan quân giặc ở chân núi Trâu Sơn. Bọn giặc giẫm đạp lên nhau mà chạy. Gióng đuổi theo, tới chân núi Sóc Sơn thì dừng. Đứa trẻ cởi áo giáp, phi ngựa lên trời mà đi. Vua sai sửa sang chỗ vườn nhà của đứa trẻ để lập đền thờ, tuế thời cúng tế.
Về sau, Lý Thái Tổ phong là Xung Thiên Thần vương. (Đền thờ ở cạnh chùa Kiến Sơ, hương Phù Đổng).
—o—
THÁNH GIÓNG – GHI CHÉP CỦA NGUYỄN ĐỔNG CHI
Kho truyện cổ tích của nhà sưu tầm lớn Nguyễn Đổng Chi cũng ghi lại truyền thuyết này, song lại thêm một số yếu tố hoàn toàn khác.
Vào thời Hùng Vương (không ghi rõ thời nào), có một người đàn bà đã nhiều tuổi nhưng sống một thân một mình. Một hôm sáng dậy bà đi thăm nương, bỗng nhìn thấy một vết chân giẫm nát cả mấy luống cà. Bà kinh ngạc kêu lên: “Ôi! Bàn chân ai mà to thế này!”. Bỗng bà cảm thấy rùng mình khi đưa bàn chân ướm thử vào dấu chân lạ. Từ đó bà mang thai. Đủ ngày tháng, bà sinh được một đứa con trai bụ bẫm đặt tên là Gióng. Nhưng thằng bé lên ba tuổi rồi mà vẫn nằm ngửa đòi ăn, không biết ngồi biết lẫy, cũng không biết nói biết cười gì cả.
Ngày ấy có giặc Ân kéo vào cướp nước ta. Giặc Ân rất hung hăng tàn ác, cầm đầu là một viên tướng tên gọi Ân vương, hình dung cổ quái dữ tợn. Chúng nó đi đến đâu là đốt phá nhà cửa, giết người cướp của đến đấy. Quân đội Hùng Vương nhiều phen xuất trận, nhưng đánh không nổi. Vua Hùng lấy làm lo lắng vội phái sứ giả đi khắp nơi trong nước tìm bậc tướng tài để giúp vua cứu nước. Một hôm sứ giả đi đến làng chú bé Gióng. Nghe tiếng loa rao nói đến việc nhà vua cầu người tài, bà mẹ Gióng đang ru con, liền bảo đùa con rằng: “Con ơi! Con của mẹ chậm đi chậm nói làm vậy, thì biết bao giờ mới đi đánh giặc giúp vua được đây!”
Không ngờ Gióng nhìn mẹ mở miệng bật lên thành tiếng: “Mẹ cho gọi sứ giả vào đây cho con!” Nói xong lại im bặt. Bà mẹ vừa mừng vừa sợ, vội đi kể chuyện với xóm giềng. Mọi người đổ tới, ai nấy cho là một sự lạ. Sau cùng một người nói: “Ta cứ đi mời sứ giả đến xem thử nó muốn cái gì”.
Khi sứ giả của nhà vua bước vào nhà nhìn thấy chú bé Gióng liền hỏi rằng: “Mày là đứa trẻ lên ba mới học nói, mày định mời ta đến để làm gì?” Gióng trả lời rất chững chạc: “Về bảo với vua rèn cho ta một con ngựa sắt, một thanh gươm sắt, một giáp sắt và một nón sắt, ta sẽ đánh đuổi giặc dữ cho!”
Ai nấy đứng nghe khôn xiết lạ lùng. Cho là thần nhân xuất hiện, sứ giả lập tức phi ngựa về tâu vua. Nghe nói, Hùng Vương mừng rỡ liền ra lệnh cho thợ rèn góp tất cả sắt lại rèn ngựa, gươm, áo giáp và nón như lời xin của chú bé. Mọi thứ rèn xong nặng không thể tưởng tượng nổi. Hàng chục người mó vào thanh gươm mà không nhúc nhích. Vua Hùng phải cho hàng ngàn quân sĩ tìm mọi cách chở đến cho chú bé Gióng. Khi được tin quân sĩ khiêng ngựa sắt sắp đến làng, mẹ Gióng sợ hãi chạy về bảo con: “Con ơi! Việc nhà vua đâu phải là chuyện chơi. Hiện quân sĩ đang kéo đến ầm ầm ngoài bãi, biết làm thế nào bây giờ?”
Nghe nói thế, Gióng vụt ngồi dậy, nói: “Việc đánh giặc thì mẹ đừng lo. Nhưng mẹ phải cho con ăn thật nhiều mới được!”
Mẹ vội thổi cơm cho con ăn, nhưng nấu lên được nồi nào Gióng ngốn hết ngay nồi ấy. Mỗi lần ăn một nồi cơm thì Gióng lại lớn thêm một ít và đòi ăn thêm. Mẹ càng cho con ăn thì con lại càng lớn như thổi, bỗng chốc đã thành một chàng thanh niên khỏe mạnh. Hết gạo, bà mẹ đi kêu gọi xóm làng. Mọi người nô nức đem gạo khoai, trâu rượu, hoa quả, bánh trái đến đầy một sân. Nhưng đưa đến bao nhiêu, Gióng ăn vợi hết bấy nhiêu, mà vẫn đòi ăn không nghỉ. Sau đó, Gióng lại bảo tiếp: “Mẹ kiếm vải cho con mặc”.
Người ta lại đua nhau mang vải lụa tới may áo quần cho Gióng mặc. Nhưng thân thể Gióng lớn vượt một cách kỳ lạ, áo quần vừa may xong đã thấy chật, thấy ngắn, lại phải mang vải lụa tới để chắp nối thêm. Không mấy chốc đầu Gióng đã chạm nóc nhà. Ai nấy chưa hết kinh ngạc thì vừa lúc quân sĩ đã hì hục khiêng được ngựa, gươm, áo giáp và nón sắt tới. Gióng bước ra khỏi nhà vươn vai một cái, người bỗng cao to sừng sững, chân dài hơn trượng, hét lên một tiếng như tiếng sấm: “Ta là tướng nhà Trời!”
Thế rồi Gióng mặc giáp sắt, đội nón sắt, tay cầm gươm múa quanh mấy vòng. Đoạn từ biệt mẹ và dân làng, nhảy lên lưng ngựa. Ngựa sắt bỗng chồm lên, phun thẳng ra đằng trước một luồng lửa đỏ rực. Gióng thúc chân, ngựa phi như bay, sải từng bước dài hàng chục con sào, rung chuyển cả trời đất. Chỉ trong chớp mắt, ngựa đã xông đến đồn trại giặc bấy giờ đang đóng la liệt cả mấy khu rừng. Lưỡi gươm của Gióng vung lên loang loáng như chớp giật. Quân giặc xông ra chừng nào chết chừng ấy. Ngựa thét ra lửa thiêu cháy từng dãy đồn trại, lửa thiêu luôn cả mấy khu rừng. Khói bụi mịt mù, tiếng la hét kêu khóc như ri. Nhưng tướng giặc Ân vương vẫn cố gào thét hô quân xáp tới, Gióng càng đánh càng khỏe, thây giặc nằm ngổn ngang đầy rừng. Bỗng chốc gươm gãy. Không bối rối, Gióng thuận tay nhổ những bụi tre hai bên đường quật tới tấp vào các toán giặc đang cố gắng trụ lại theo lệnh chủ tướng. Chẳng mấy chốc quân giặc đã tẩu tán khắp nơi, Ân vương bị quật chết tan xác. Bọn tàn binh giặc lạy lục xin hàng. Quân đội của Hùng Vương cũng như dân các làng chỉ còn việc xông ra trói nghiến chúng lại. Không đầy một buổi, Gióng đã trừ xong nạn nước. Lúc bấy giờ ngựa Gióng đã tiến đến chân núi Sóc Sơn. Đến đây, Gióng bèn cởi giáp bỏ nón lại, rồi cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời. Sau khi thắng trận, để nhớ ơn người anh hùng, vua Hùng sai lập đền thờ Gióng ở làng quê, phong làm Phù Đổng Thiên vương.
Ngày nay chúng ta còn thấy dấu vết những dãy ao tròn nối nhau kéo dài suốt từ Kim Anh, Đa Phúc cho đến Sóc Sơn, người ta bảo đó là những vết chân ngựa của Thánh Gióng. Khu rừng bị ngựa sắt phun lửa thiêu cháy nay còn mang cái tên là làng Cháy. Những cây tre mà Gióng nhổ quật vào giặc bị lửa đốt màu xanh ngả thành màu vàng và có những vết cháy lốm đốm, ngày nay giống ấy vẫn còn, người ta gọi là tre là ngà (hay đằng ngà).
—o—o—o—
PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG – HÙNG VƯƠNG SỰ TÍCH NGỌC PHẢ CỔ TRUYỀN
Vương hưởng 114 năm, sau đó lập thái tử Hùng Huy Vương lên ngôi. Huy Vương theo quy tắc của các tiên vương mà thi hành, trị nước bằng cách dưỡng dân. Nhân lúc yên bình, khơi thông hào, ao hồ, do vậy tự nhiên an lành không còn ưu lo nữa. Lúc ấy Vương được báo cho biết có 1 bà đồng tinh thông địa lý, thiên văn, biết rõ thần cơ mật pháp. Vương cho là tiên nhân, đem vào trong cung, để khi có việc nước thì hỏi ý. Ngày sau, đình thần tấu rằng: ”Bà đồng này rất mơ hồ, chỉ là một phụ nữ hoang đường nói là biết việc trên trời dưới đất để mong bệ hạ nghe và tin bà ta, chúng thần cho rằng bà ta mê hoặc bệ hạ”.
Vương đồng ý, giam bà ta vào trong cung, rồi sai giả làm một đàn voi trắng không ngà, voi đen 3 ngà, ngựa đỏ 5 chân, cầu trời, nói với các quan: “Trẫm dùng kế này để xem bà ta là giả hay thật”. Sắp xếp xong lễ vật xong, Hoàng Thiên ở trên cao, nhìn thấy sắp xếp một đàn lễ như vậy, tuy tai nghe không rõ, để cảnh báo vua không có đức độ, nguyện sẽ không ứng hiện hàng phục tai ương.
Lúc đầu vương chỉ muốn nghiệm xem đạo trời có báo ứng ngay trước mắt không, sai dẫn bà ta đến nói: ”Bà có khả năng nhìn biết việc thiên cơ, nay nước nhà có sự không rõ, gọi bà đến, xem bà có thể bay lên trời, hỏi xem do đâu mà ra? Rồi báo lại cho trẩm biết”.Bà đồng nhận lệnh ra đi, canh ba tối đen như mực, bay thẳng đến cửa ngọc hoàng, quỳ xuống tâu rằng: “Bầy tôi thừa lệnh nước, đến tấu thiên đình, nay trần thế có việc, là do đâu mà ra vậy?”. Ngọc Hoàng phán: ”Ngươi nên xuống ngay dưới trần báo lại với Vương, lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà không thoát, trần thế thì tất bật, đã nguyện thì phải hết lòng, lúc vua bất chính, tự kiêu căng dâng những lễ ấy cho thiên đạo, họa sẽ ứng báo, không chỉ hàng phục tai ương, sau ba năm sẽ có đại giặc”.
Phán xong bà đồng tỉnh lại báo cho Vương biết. Vương rất lo sợ, ráng giữ bà ở lại trong cung để xem lời nói có ứng nghiệm hay không? Vương sai quan thiết lập đàn ở ngay giữa kinh đô, dùng voi, ngựa vàng bạc đem đến tận trong cung, bày trí đồ vật, Vương đích thân thự hành nghi lễ, chú rằng: “Ít tài vật nhiều lầm lỗi xin lễ hoàng thiên, sự việc trước mắt không biết rõ, xin thượng đế chuyển tai ương thành vận tốt, mong chờ đức lớn của người”. Vương vừa chú xong, đột nhiên mây gió nổi lên cuồn cuộn, màu trời âm u, trên đàn khói hương khói như vân nhiều màu, vua bàng hoàng sợ hãi bái tạ, lên xe về cung, lại gọi bà đồng lên trời tấu với Ngọc hoàng mong mang phúc lành cho nước.
Bà đồng quay về báo với vương: ”Người, vua đã biết hối lỗi, trời đã đoái hoài, tuy nhiên năm mà có giặc đến xâm phạm, trời sẽ sinh người tài để giúp Vương, không nên lo lắng nhiều”. Vương rất tin, cho đến 3 năm sau, bỗng nhiên có thư từ biên giới báo gấp giặc Ân, Thạch linh thần, sẽ khởi binh xâm lăng từ hướng Bắc, binh sĩ rất đông ngàn cờ liên tiếp giống như Bà Đồng từng nói. Vương lại lập đàn trai giới, hương khói cầu xin, tất cả quần thần hội nghị trong 3 ngày. Sau đó mưa to gió lớn, bỗng nhiên xuất hiện 1 lão ông cao hơn 9 trượng (1,7mx9), tóc mi bạc phớt, ngồi giữa đường vừa nói cười vừa nhảy múa, mọi người đều cho là kỳ nhân, về báo với Vương. Vương đích thân đến trước đàn hỏi: ”Nay có giặc đến xâm chiếm, gánh vác như thế nào? xin cho lão nhân được một quẻ tốt lành“, Quẻ nói cho Vương rằng: “Nếu cầu được người, bọn giặc này không đáng kể nhĩ”. Nói xong, ông lão bay lên trời.
Vương biết là do Lạc Long Quân chỉ dạy. Lúc ấy ở hương Phù lý, có ông nhà giàu sinh 1 trai đã được 3 tuổi tên còn có tên khác là Thiết xung Thần vương, ăn uống rất nhiều, không biết nói, không biết khóc, bà mẹ nghe sứ giả đến bèn nói vui rằng: ”Xin cho con tôi theo chỉ ăn uống, không biết đánh giặc, mong báo đền ơn nước, báo ơn cha mẹ”. Nghe mẹ nói, đột nhiên cậu bé lên tiếng: “Mẹ gọi sứ giả đến” Thần vương bảo sứ rằng mau về bảo Vương, đúc con ngựa sắt cao mười xích (3,3m), đao dài 10 xích. Còn việc sau đó giao cho ta, không phải lo chi cả.
Sứ giả nghe rõ lời về báo cho Vương, Vương rất vui lệnh tìm 50 cân (25kg) sắt luyện thành đao. Tướng trở lại, thần vương nhảy lên ngựa, hô lên: “Ta là tướng trời“ phóng ngựa chạy như bay, trực chỉ chân núi Võ Ninh, An Việt, đánh Thạch Linh Thần Tướng, bắt giết hết dư đảng của quân Ân ở biên giới, không tên giặc nào thoát khỏi đao Việt. Thần Vương tảo thanh giặc đến từng bụi chuối ngọn lúa, thẳng đến núi Sóc Sơn, xã Vệ linh, huyện Kim Hoa cởi áo bỏ ngựa mà bay lên trời. Nay còn dấu ngựa ở Nham Thượng Yên. Hùng Huy Vương nghĩ đến công lao giúp nước to lớn, nhưng chưa từng gặp mặt, không biết làm sao báo đáp cho tròn, nên tôn là Phù Đổng Thiên Vương lập đền thờ tại quê hương của ông tại xã Phù Đổng, huyện Tiên Du và tại xã Vệ Linh, huyện Kim Hoa. Vương cấp 100 điền hạng nhất để phụng tự cho hậu thế của Vương, lập lại 9 loại tiêu điện ở Nghĩa lĩnh sơn dùng làm linh điện kính thiên, nơi Vương thường đến chú.
—o—
PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG HUYỀN THIÊN ĐẠI THÁNH BÁO ÂN MẸ
Sử quan triều Nguyễn soạn sách Đại Nam nhất thống chí xếp đền Đông Bộ Đầu là một trong số 36 đền miếu cổ tích của tỉnh Hà Tây (cũ). Thế kỷ 17, sách Công dư Tiệp ký của tác giả Vũ Phương Đề, Hoàng Việt địa dư chí, Nam Việt địa chỉ dư chí chép Thành hoàng thờ ở đền Đông Bộ Đầu là “Sự tích Đổng Sóc Thiên Vương Huyền Thiên Đại Thánh báo ân mẹ Bùi Thị Dung Quốc Mẫu Văn Lang thời Hùng Vương thứ 6 là bậc thánh nhân của mọi thời đại”.
Chuyện kể rằng: Thời Hùng Vương sông Hồng xuất hiện nhiều thuồng luồng chuyên ăn thịt người, ngày kia, có bà mẹ ở làng ven sông ra bến đò Dấp gánh nước thì đột nhiên hai con thuồng luồng lao tới cuốn bà ra xa bờ. Bà bị con thuồng luồng cái nuốt dần vào bụng, mới ngẩng mặt lên trời ca thán: “Trời ơi! Người ta sinh con mong để cậy nhờ, còn tôi có con mà cũng như không thế này!”. Dứt lời, bỗng có vị thần khổng lồ trên mây cao xanh sà xuống, chàng căm giật đứng choại chân sang bên bờ sông, lưng gập xuống, đưa hai tay khoắng nước từ ngã ba Bạch Hạc đến ngã ba Tuần Vường. Chàng trai đã kịp tóm cổ nó mang lên bờ, vuốt ngược bụng con thuồng luồng cái lấy xác mẹ ra. Sau đó, chàng đưa cả hai con thủy quái xuống lòng bàn chân nhấn sâu xuống bùn đen. Chàng táng mẹ vào lòng bàn tay trái để “mẫu bất ly thân” hóa thành ngôi bảo tháp, xong đâu đấy, chàng bước lên bãi ven sông rồi bay về trời. Bến sông làng Dấp để lại ba dấu chân lõm sâu xuống đất. Chỗ vết chân cuối chàng “xung thiên” hóa dân lập đền chính, còn hai vết chân kia dân lập miếu thờ. Làng Dấp có tên gọi là Bộ Đầu (nghĩa là bước chân) từ đấy…
Về cha mẹ của Thần :
– Thần có họ Đổng, có công giỏi trị thủy cứu dân, mẹ là Bùi Thị Dung “Khi cô tròn 16 tuổi, gương mặt hồng tươi, mắt tựa ánh trăng rằm hồ thu, nhan sắc tuyệt thế. Lại có điều lạ trên đầu nàng luôn hiện mật vầng hào quang ngũ sắc lãng đãng như cánh chim loan. Dù nàng đi đâu, đi chơi hay đi lấy củi hay làm đồng thì vầng hòa quang đó vẫn bay ở trên đầu, tứ bề muôn đóa huy hoàng quấn quýt, một vùng gió biếc hương đư ngan ngát”. Mẹ Thần là vợ yêu của Đại quan làng họ Đổng Gia vùng Đại Mạn Châu danh giá. Nhưng do số phận, chỉ một năm chồng bà qua đời, bà vào tu tại chùa Hoàng Nham.
– Một buổi, bà đi dạo trên một quả đồi, thấy phiến đá sạch, bà nằm nghỉ, tự nhiên thấy một đóa sen hồng rơi xuống bụng. Sau ba mốt tháng, đẻ ra một bọc hình đóa sen hồng còn phong nhụy, lúc nào cũng thoang thoảng hương đưa và có những dải mây cầu vồng quấn quýt, 7 tháng sau bông sen còn chưa nở. Chỉ khi vua Hùng đưa về cung ngày đêm chăm sóc, dần dần đóa sen mới nở hình hài nhi, sau này là Thánh Gióng…
Về chiến công đánh giăc Ân : “Thiên thần lập tức xông thẳng tới nơi giặc ở Động Xích Quỉ bên núi Ngũ Lĩnh. Tướng giặc Đằng Xà bấy giờ đang giữa trăm quân hầu cận, trông thấy ngài bèn hồn bay phách lạc. Bọn tả hữu vội tẩu tán. Thần tướng bắt sống được tướng giặc Đằng Xà bên chân núi Ngũ Lĩnh, chém nó thành ba đoạn. Tàn quân giặc Xích Quỉ bị đánh tan tác như tro bụi. Thần tướng trở gót một mạch về triều, tới trước mặt vua nói: Ơn bú mớm thật là sâu nặng, Xin nhà vua hãy thay ta chăm sóc mẹ. Dứt lời thiên thần cầm đao long vút thẳng lên trời”.
Đền thờ Đổng Thiên Vương tên là Quán Thánh, còn ngài được phong là Phù Đổng Thiên Vương Huyền Thiên Đại Thánh.
—o—
TỲ SA MÔN ĐẠI VƯƠNG – THIỀN UYỂN TẬP ANH
Xét sách Thiền uyển tập anh, đời Lê Đại Hành Hoàng đế, Đại sư Khuông Việt họ Ngô thường đi chơi núi Vệ Linh ở quận Bình Lỗ, ngắm xem phong thủy, thấy cảnh trí rất đẹp nên muốn dựng từ am ở đó. Đêm mộng thấy một vị thần mình mặc áo giáp vàng, tay bên tả cầm giáp vàng, tay bên hữu xách cái bảo tháp, theo sau hơn mười người, trạng mạo cổ quái đáng sợ, đến trước bảo rằng: “Ta là Tỳ Sa Môn Đại Vương, kẻ tùy tùng đều là quỷ Dạ Xoa cả, Thiên đế có sắc bảo qua ở nước này để phù hộ cho hạ dân, với người có duyên nên mới đến đây nói chuyện”.
Sư giật mình tỉnh dậy kinh hãi, nghe trong núi có tiếng hò hét, lòng rất lấy làm ghét. Sáng ngày, Sư vào núi thấy một cây rất to, cành lá rườm rà, lại có mây sắc trùm trên ngọn cây, mới bảo thợ rừng đốn xuống, quả y như trong mộng, liền khắc tượng lập đền. Năm Thiên Phúc nguyên niên [tức năm 980], quân Tống vào cướp, vua nghe đền nay linh ứng, bảo Sư đến đền cầu đảo.
—o—
THỔ ĐỊA CHÙA KIẾN SƠ GIÁNG SINH – VIỆT ĐIỆN U LINH TẬP
Câu chuyện thờ tự Đổng Thiên vương được ghi chép trong Việt điện u linh tập.
Xét truyện Báo Cực chép rằng: Đời truyền Vương vốn là thần Thổ Địa chùa Kiến Sơ giáng sinh. Xưa kia Thiền sư Chí Thành ở chùa Kiến Sơ tại làng Phù Đổng có lập đền thờ Thổ Địa ở bên hữu chùa để làm nơi tụng niệm cho thanh tĩnh. Năm tháng chầy lâu, mất cả sự tích, bọn thầy tang môn không rõ chứng cứ. Thổ dân bản xứ ưa việc ma quỷ thì đốt hương khấn vái, lạm xưng là Dâm Từ. Kịp đến lúc Thiền sư Đa Bảo sửa lại chùa, cho đền thờ ấy là Dâm Từ muốn đập phá đi.
Ngày kia ở gốc cây cổ thụ nơi Thần từ có đề bài kệ rằng:
Phép Phật ai gìn giữ?
Đợi nghe lời Kỳ viên.
Nếu không ta vun quén,
Sớm theo chỗ khác thiên.
Chớ chở Kim Cương bộ,
Dầu mật chớ lan truyền.
Đầy không, trần vài đứa.
Tu Phật thành oan khiên.
Cách đó ít lâu, Thần lại ứng hiện tám câu kệ rằng:
Phép Phật từ bi lớn,
Uy quang trùm mọi miền.
Muôn thần đều thụ hóa,
Ba giới thảy lan tràn.
Sư ta hành hiệu lệnh.
Tà quỷ ai dám trên?
Nguyện thường theo thụ giới,
Lớn nhỏ hộ Kỳ viên.
Sư lấy làm lạ, mới lại thiết đàn làm chay, cúng dùng toàn đồ chay cả. Lý Thái Tổ đang lúc tiềm long, biết sư Đa Bảo là người có hạnh cao mới kết làm đàn việt. Sau khi đã chịu truyền ngôi, thân ngự đến chùa, nhà sư đón giá đi ngang qua bên chùa; Sư lớn tiếng hỏi rằng:”Phật tử, ngươi hãy thung dung mừng Tân Thiên Tử chứ?”
Nghe có tiếng: “Vâng!”, tức thì thấy da cây có đề bốn câu thơ rằng:
Để đức càn khôn lớn,
Oai thanh lặng tám miền.
Cõi âm nhờ ân huệ,
Nhuần thấm đền Xung Thiên.
Thái Tổ xem thấy liền đọc biết được ý tứ, bèn ban hiệu là Xung Thiên Thần vương; bài thơ tự nhiên biến mất. Vua lấy làm lạ, mới bảo thợ tạc tượng thần, nghi dung hùng vĩ, và tám người đứng hầu. Sơn thếp xong rồi thì làm lễ cáo thành, lại thấy ở dưới cây Đại thụ có đề bốn câu thơ:
Một bát nước công đức,
Theo duyên hóa thế gian.
Sáng choang còn chiếu đuốc,
Bóng tắt, nhật lên non.
Nhà sư đem bài kệ ấy tâu lên vua, nhưng Lý Thái Tổ không hiểu là nói gì. Sau triều Lý được tám đời, truyền ngôi cho nhà Trần. Chữ bát cùng chữ bát đồng âm, nhất bát như bát. Lý Huệ Tông tên là Sảm (旵), trên [là] chữ nhật, dưới [là] chữ sơn, nên gọi là nhật đăng sơn, thì ra thần diệu như thế. Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu [năm 1285 đời Trần Nhân Tông], sắc phong Dũng Liệt Đại vương. Năm thứ 4, gia phong hai chữ Chiêu Ứng. Năm Hưng Long thứ 21 [năm 1313] đời Trần Anh Tông, gia phong hai chữ Uy Tín.
Đền miếu Phù Đổng đứng vào bậc nhất, bốn tổng lớn như Thắng, Đồng, Minh, Viên tuế tiết phụng tự rất là thành kính, mỗi năm đến ngày mồng 9 tháng 4 có hội, làm hội lớn của Bắc Giang. Các tổng miền thượng du ở sát núi Vệ Linh là chín tổng, mỗi khi đến lệ đại hội thì lấy đồ lỗ bộ bằng đồng thực mà nhóm lại đánh nhau để diễn lại vũ công của Thiên vương.
Đền thờ ở làng Cảo Hương làm cảnh đẹp cho Kinh đô, đến đầu năm làm lễ tế đầu Xuân thì thực là nơi đô hội của cả một phương. Am linh chói lọi, chín tầng trời hâm mộ đoái hoài, làm lặng bụi dơ mà phục hồi bờ cõi, suối trong nước lặng, nước Việt ta yên ổn vững vàng như bàn thạch Thái Sơn, thực là nhờ sức hiển tướng của Thiên vương vậy.
—o—
ĐỔNG THIÊN VƯƠNG – THANH HOÁ

Đền Đổng Thiên Vương thần ở làng Chiềng, nay là Trịnh Điện, xã Định Hải, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá : Sách Đại Nam Nhất Thống Chí (tập 2) cho biết: Đền Đổng Thiên vương thần ở làng Trịnh Điện (làng Chiềng, nay thuộc xã Định Hải). Điện thờ được xây dựng ở vị trí gần làng Trình Điện và làng Ái cận kề sông Mã, đối diện với di tích đồi Sóc bên kia sông. Theo lời truyền văn, điện Đổng Thiên Vương có quy mô khá lớn, phía trước có một khối tượng ngựa, tạc trong thế đang bay lên trời (mô típ phổ biến tại các di tích thờ Thánh Gióng). Căn cứ vào vật liệu kiến trúc còn lại, có thể nhận thấy điện thờ được xây dựng khá sớm, muộn nhất cũng được tạo dựng vào thời hậu Lê và đã được tu sửa nhiều lần. Lễ hội ở điện thờ Đổng Thiên vương thần được tổ chức vào đầu tháng tư (âm lịch), với các nghi lễ, diễn xướng tôn vinh Thánh Gióng, thu hút nhiều khách thập phương. Cùng với lễ hội tôn vinh Phù Đổng Thiên vương còn có những tục lệ liên quan đến truyền thuyết Thánh Gióng đến nay vẫn tồn tại ở các làng Ái, làng Chiềng và các vùng lân cận.

Làng Ái và làng Chiềng có tục trồng cà, muối cà để cúng tế trong dịp lễ. Trong tâm thức người dân địa phương, trước khi ra trận, ông Gióng đã ăn hết ‘bảy nong cơm, ba nong cà”. Trò thổi cơm thi khá phổ biến trong đời sống văn hóa của cư dân nông nghiệp Việt Nam nhưng với các vùng thờ phụng Thánh Gióng, việc nấu cơm nhanh và ngon bắt nguồn từ tích xưa, người dân phải nấu cơm gấp để ông Gióng ăn đủ no. Một số làng còn lưu dấu tích ông Gióng nhổ tre đánh giặc vẫn có tục trồng tre vào đầu năm. Trong hệ thống trò chơi đầu năm tại một số làng ở vùng Yên Định có trò chơi quăng gậy tre – người nào “quăng tre” xa nhất là thắng cuộc..

– Dấu chân người khổng lồ trên đất làng Còng Cháy ở xã Vĩnh An (huyện Vĩnh Lộc) chính là việc Thánh Gióng dậm chân nhảy qua sông Mã;

– Sau khi đánh tan giặc xâm lược, từ đồi Sóc Sơn bên kia sông, vị thần nhà trời đã cưỡi ngựa sắt bay sang bên này sông Mã (xã Định Hải), ở núi Chân Tiên. Tại đây, người và ngựa cùng lên đỉnh núi bay về trời, để lại dưới núi Chân Tiên dấu vết “4 bàn chân ngựa, 2 bàn chân người in xuống nền đá khối”.

– Bụi tre đằng ngà ở một số nơi trên đất Vĩnh Lộc được cho là ngựa Gióng phun lửa có màu xám như bị đốt; loại tre “mọc ngược” tại đồi Ông Thánh (huyện Hà Trung) được đời sau lý giải từ hành động ông Gióng nhổ tre đánh giặc, bụi tre rơi từ trên cao, cắm ngọn xuống đất thành ra “mọc ngược”

– Núi Sóc ở Vĩnh Lộc (trùng với địa danh núi Sóc ở bộ Vũ Ninh) là nơi Thánh Gióng để lại áo giáp sắt rồi cùng ngựa sắt bay lên trời.

https://vhds.baothanhhoa.vn/ve-noi-luu-dau-huyen-tich-phu-dong-thien-vuong-21633.htmhttps://svhttdl.thanhhoa.gov.vn/van-hoa/den-tho-phu-dong-thien-vuong-va-le-hoi-thanh-giong-o-thanh-hoa-1004719

—o—o—o—

CÁC DI TÍCH THÁNH GIÓNG
Quần thể đền Gióng, ở xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội
– Đền Thượng (trong khu quần thể còn có đền Hạ Mã, Giá Ngự)
– Đền Hạ – Đền Mẫu Thánh Gióng
– Cố Viên
– Miếu Ban
– Bãi đánh cờ Đống Đầm
– Bãi Soi bia
– Chùa Kiến Sơ, chùa Hương Hải, mộ Trần Đô Thống
—o—
Đình Gióng Mốt ở Đổng Xuyên, nằm ở bờ nam của sông Đuống, thờ Đức Thánh Mẫu (mẹ Thánh Gióng), Đức Đổng Thiên Vương (Thánh Gióng)
—o—
Đền Sóc Xuân Tảo, quận Bắc Từ Liêm
– Thờ : Phù Đổng Thiên Vương – Thánh Gióng.
– Sự tích : Theo tục truyền, ở thời Vua Hùng thứ 6, sau khi thắng giặc Ân, trên đường đến ngọn núi Sóc (xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn) để bay về trời, Thánh Gióng đã dừng chân nghỉ tại làng Cáo (nay thuộc phường Xuân Đỉnh) để ăn nốt mo cơm và gói cà mang theo. Ăn xong, vội lên đường nên Thánh Gióng đã để quên một đoạn roi sắt tại đây.
—o—
Đền Sóc, làng Vệ Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội
– Thờ : Xung thiên Thần vương – Thánh Gióng.
– Sự tích : tương truyền đây là nơi Gióng đã trút giáp để cùng ngựa về trời

Khu di tích lịch sử đền Sóc nằm dưới chân núi Sóc (núi Vệ Linh), Sóc Sơn, Hà Nội là quần thể gồm

– đền Trình,

– đền Mẫu,

– chùa Đại Bi,

– đền Thượng,

chùa Non Nước,

tượng đài Thánh Gióng trên đỉnh Vệ Linh

– Các lăng bia đá ghi lại lịch sử

Lễ hội đền Sóc.

Ngày nay chúng ta còn thấy dấu vết những dãy ao tròn nối nhau kéo dài suốt từ Kim AnhĐa Phúc cho đến Sóc Sơn, người ta bảo đó là những vết chân ngựa của Thánh Gióng.

—o—

Đền Sọ thờ Thánh Gióng – Phù Đổng Thiên Vương, hiện thuộc xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, ngoại thành Hà Nội. Di tích này do 3 tổng Phù Xá, Xuân Nộn, Phù Lỗ cùng chung lo việc thờ cúng và tổ chức lễ hội. Do vậy đền còn được gọi là đền Tam tổng hay đền Tam tổng – Phù Lỗ, Vùng đất nơi đây đã sớm hình thành quần cư được mang tên Kẻ Sọ, tên nôm gọi là Sổ, đầu công nguyên thuộc tổng Vũ Ninh, huyện Phong Châu.

Theo truyền tích, đền Sọ là nơi Thánh Gióng trên đường đi đánh giặc đã dừng chân gội đầu, nghỉ lại tại đây. Hiện ở đền còn có giếng, tương truyền là nơi Thánh đã gội đầu.

Trong các cổ vật của đền rất lưu ý có một tấm bia đá ghi nhận rõ về việc 54 xã trong Tam tổng phụng thờ Phù Đổng Thiên Vương.

—o—

Đền Sóc, Xuân Tảo, Bắc Từ Liêm, Hà Nội : Theo tục truyền, ở thời Vua Hùng thứ 6, sau khi thắng giặc Ân, trên đường đến ngọn núi Sóc (xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn) để bay về trời, Thánh Gióng đã dừng chân nghỉ tại làng Cáo hay làng Cảo Hương (nay thuộc phường Xuân Đỉnh). Sau khi tắm mát trong nước Hồ Tây, ngài nghỉ tại gò Phượng Hoàng, ăn cơm với cà do dân làng dâng tặng. Ăn xong, vội lên đường nên Thánh Gióng đã để quên một đoạn roi sắt tại đây. Để ghi nhớ sự kiện này, dân làng đã xây đền thờ tại nơi Thánh Gióng dừng chân, bên trong đền có thờ một đoạn sắt của Thánh Gióng. Thời Lý, việc tế ở đền được coi là quốc tế, vua và Bộ Lễ hàng năm đến tế, cầu cho quốc thái dân an. Mỗi lần tế (ngày mùng 6 tháng giêng âm lịch) là một ngày hội lớn của dân Tây Hồ và Thăng Long.

https://bactuliem.hanoi.gov.vn/du-lich-bac-tu-liem/-/asset_publisher/Yb3BeOidCkHd/content/di-tich-lich-su-en-soc-noi-tho-uc-phu-ong-thien-vuong?_101_INSTANCE_Yb3BeOidCkHd_viewMode=view

—o—

Đền Thượng, tức ” Cửu trùng tiền điện ” thuộc quần thể đền Hùng ở khu vực núi Nghĩa Lĩnh, Vĩnh Phúc, thờ Thánh Gióng, vì núi Nghĩa Linh là nơi vua Hùng Vương VI tế trời để cầu hiền tài đánh giặc Ân. Ở đây cũng có mộ vua Hùng Vương VI.
Trong sự tích Thánh Gióng của làng Bộ Đẩu có nói về việc Thánh Gióng đánh giặc Xích Quỷ ở núi Nghĩa Lĩnh : “Thiên thần lập tức xông thẳng tới nơi giặc ở Động Xích Quỉ bên núi Ngũ Lĩnh. Tướng giặc Đằng Xà bấy giờ đang giữa trăm quân hầu cận, trông thấy ngài bèn hồn bay phách lạc. Bọn tả hữu vội tẩu tán. Thần tướng bắt sống được tướng giặc Đằng Xà bên chân núi Ngũ Lĩnh, chém nó thành ba đoạn. Tàn quân giặc Xích Quỉ bị đánh tan tác như tro bụi. Thần tướng trở gót một mạch về triều, tới trước mặt vua nói: Ơn bú mớm thật là sâu nặng, Xin nhà vua hãy thay ta chăm sóc mẹ. Dứt lời thiên thần cầm đao long vút thẳng lên trời”.
—o–

Làng Bộ Đầu (làng Dấp), xã Thống Nhất, huyện Thường Tín, Hà Nội

– Đền Đông Bộ Đầu thờ Đổng Sóc Thiên Vương Huyền Thiên Đại Thánh

– Bia Quán Thánh

https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3096/18971/di-tich-phu-djong-thien-vuong-huyen-thien-djai-thanh-bao-an-me.html

Thời Thánh tổ Triết vương Trịnh Tùng (1570-1623) đem quân đi đánh nhà Mạc, khi thuyền qua đền Bộ Đầu, không rõ vì lý do gì thuyền bị mắc kẹt quay ngang. Thăm dò hỏi dân địa phương Chúa biết có đền thờ Mẫu bà Bùi Thị Dung và Đổng Sóc Thiên Vương. Trịnh Tùng liền khẩn xin thần linh phù trợ để đánh thắng giặc, quả nhiên về sau dẹp loạn xong một cách thần tốc và do mải việc nước nên quên lời hứa xây dựng đền. Vào một buổi trưa, trong giấc chiêm bao, Trịnh Tùng mộng thấy một vị thần khổng lồ có Bát bộ Kim Cương theo cùng nói “Nhà ngươi đã sai lời hứa”. Tỉnh mộng Chúa nhớ bèn sai thợ xây dựng đền, cho tạc một pho tượng Thánh cao đến 21 thước ta (8,4m). Sách Công dư tiệp ký chép tạc tượng thần cao 3 trượng 6 thước (14,4m). Kiến trúc gồm nhà tiền tế 5 gian, gian giữa chồng diêm 8 mái để chuông đồng; hậu cung 2 tầng, tầng trên ba bề ghép kính, dân chúng đi trên đê sông Hồng đều nhìn thấy mặt Thiên Vương nhô lên ở tầng lầu.

—o—o—o—

Huyện Gia Bình, Bắc Ninh

– Người ta kể rằng những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những hồ ao liên tiếp.

– Làng Đại Bái : Giếng và vết chân Thánh Gióng

– Làng Cháy : Người ta còn nói khi ngựa thét lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là Làng Cháy.

—o—

Thị Cầu, Bắc Ninh

– Đền thờ Mẫu đức Thánh Gióng

—o—

– Làng Roi Sóc (tên gọi nôm là làng Cháy) thuộc tổng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc, nay là xã Phù Chẩn, Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Cái tên làng Cháy gắn liền với sự tích Thánh Gióng “Phù Đổng Thiên Vương”. Khi cậu bé làng Gióng vươn vai, nhảy lên ngựa sắt tiến đánh giặc Ân, thì ngựa sắt hí vang, phun lửa cháy mấy làng bên cạnh. Nên dân chúng quen gọi là Làng Cháy.

– Đền Thọ Trai, khu phố Thọ Trai, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn thờ đức thánh Phù Đổng Thiên Vương : Theo truyền tích của địa phương, làng Thọ Trai có từ thời Hùng Vương là nơi Thánh Gióng đánh giặc Ân qua đây được nhân dân thổi cơm cho ăn. Dấu chân ngựa của Thánh Gióng còn in dấu ở phiến đá nơi rừng cây phía Tây đầu làng. Về sau nơi đấy dân làng Thọ Trai đã lập đền thờ Thánh Gióng.

—o—

Huyện Quế Võ

– Làng Cao Tự : Sau khi thắng trận, Thánh Gióng đến một nơi, buộc ngựa sát vào hai cọc đá lớn ngồi nghỉ. Ngày nay một cột đá còn thấy ở làng Cựu tự cao khoảng ba thước vòng rộng sáu tấc, xâu thẳng xuống một bệ đá tự nhiên hình bầu dục.

– Ngựa sắt mệt quá sủi bọt mép thành một bãi cát trắng xóa lấp lánh dưới ánh mặt trời. Bãi này nay thuộc xã Ngọc Xá, huyện Quế Võ, đặc biệt ở cách xa bờ sông, người ta gọi là Bạch nhạn sa.

—o—

Làng Bầu

Thánh Gióng đi qua một làng nọ ven sông Cầu, ở đây có một bà lão bán nước vối. Thánh Gióng dừng lại xin nước uống. Bà lão dâng bầu rượu. Uống xong, Thánh Gióng khen bà lão có lòng tốt, đặt tên là làng Bầu và dặn lúc nào hạn, cho phép cầu mưa sẽ linh nghiệm. Từ đấy, mỗi khi đại hạn, ở đây (nay gồm bảy làng gọi là tổng Bầu) có hội cầu mưa, người ta thường rước Thành hoàng làng lên Sóc Sơn để xin nước.

—o—

Huyện Đông Anh, Hà Nội

– Đền Thánh Gióng, thôn Đìa, Nam Hồng, Đông Anh, Hà Nội

– Đền Phù Đổng, Nguyên Khê, Đông Anh, Hà Nội

—o—

– Đền Sóc Lang hay còn gọi là từ Lang, thôn Đông Vinh, xã Vũ Vinh, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Đền Sóc Lang thuộc “tứ linh từ” của huyện Chân Định xưa. Tương truyền, phía trước đền Sóc Lang có hai hồ nước là dấu chân ngựa sắt của Thánh Gióng lúc đuổi giặc ở phía Đông Nam.

—o—

– Đình Nội Mai, xã An Viên, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên : Phía trước đình có 3 gò đất thiên tạo, phía sau là 7 dấu chân ngựa của Thánh Gióng. Căn cứ vào sắc phong lưu giữ tại di tích, đình Nội Mai là nơi tôn thờ Nhị vị Đại Vương: Đô Công và Quảng Công sống thời Hùng Vương. Các Ngài là những người văn võ tinh thông, tài nghệ hơn người, ai cũng kính phục. Được nhà vua tin tưởng, giao cho trọng trách cầm quân đánh giặc Thục xâm lược giành thắng lợi. Sau khi hóa về trời, được nhân dân tôn làm Thành hoàng làng, dựng đình thờ phụng muôn đời. Trải qua các triều đại, hai Ngài thường âm phù cho các vua, các tướng dẹp giặc cứu nước.

—o—o—o—

THEO DẤU CHÂN THÁNH GIÓNG
Thánh Gióng là một huyền sử ngỡ rằng ai cũng biết mà thực ra càng tìm hiểu càng thấy mênh mông. Huyền sử Thánh Gióng phản ánh một sự kiện rất lớn liên quan đến tính nguồn cội của mỗi người Việt.
Trong sách vở, chúng ta được học và được đọc những phiên bản Thánh Gióng hết sức sơ sài và khô cứng, so với thực tế phong phú và sinh động của những làng quê vẫn in đậm dấu tích của thời kỳ oanh liệt này. Thậm chí, một số người chỉ dựa vào vài thông tin sơ sài này rồi cho rằng những huyền tích này là không có thật, là nhân cách hoá này nọ, khi cuộc sống còn mông muội.
Một số người sau khi đi thực địa theo các dấu chân của Thánh Gióng để lại ở các làng quê đã cố gắng viết nên một phiên bản Thánh Gióng chân thực hơn và đầy đủ hơn.
Sau đây là một phiên bản Thánh Gióng “tích hợp chuyện kể ở các làng” như thế
—o—o—o—
Vua Hùng thứ 6, Hùng Huy Vương lên ngôi, noi theo quy chế của tiền vương, cũng có chí chăm việc nuôi dân, nhưng kế thừa nền thái bình đã lâu, ngòi rãnh dễ tràn, cam chịu yến tiệc yên vui, không chịu khó nghĩ suy chính sự.
Bấy giờ có Bà mo (vu nữ) tinh thông địa lý thông hiểu thiên văn, thường đem bí pháp thần cơ tâu vua, tự xưng là Tiên nhân, xin cho vào hầu trong cung để thưa đáp khi vua cần hỏi đến.
Ngày sau đình thần có vị quan tâu rằng:
– Bà mo ấy mù tịt về mo sử, xem ra chỉ là một mụ đàn bà bình thường thôi! Chỉ giỏi bàn luận vu vơ, thực chẳng biết trời đất thiên địa. Sao vua lại cho mụ ta hầu cận, bàn nói chuyện hoang đường? Bọn thần cho rằng bệ hạ đã bị mụ ta làm mê hoặc.
Vua cho là phải, bèn sai bắt bà mo giam trong cung. Sau đó vua sai lập một đàn tế khác, cũng làm giả các voi trắng không ngà, voi đen ba chân, ngựa đỏ năm chân để cầu đảo với Thiên vương. Vua bảo đình thần:
– Trẫm dùng kế ấy để xem người bà mo có biết giả trá hay không?
Hoàng thiên tuy cao, nhưng nghe xong tỏ ý không bằng lòng, xem đến các đồ lễ thì hoàn toàn không linh ứng. Hoàng thiên bèn giáng tai ương để cảnh báo nhân quân không có đức.
Bấy giờ Hùng Huy vương mới nghiệm biết đạo trời báo ứng ngay trước mắt. Bấy giờ vua cho đưa bà mo đến bảo: ”Ngươi biết dò xét huyền cơ, nay trong nước có triệu chẳng lành, ngươi có thể bay lên trời tìm hỏi xem lý do thế nào?
Bà mo bèn nằm thiếp trong khoảng ba canh rồi nói lảm nhảm như người đang chiêm bao. Ba ta nói mình đã đến trước cửa khuyết Thiên đình, tâu rằng: “Tôi vâng mệnh quốc vương lên tâu thiên đình: Nay trần thế đang có tai ương, chưa biết nguyên do nào gây nên như thế? Ngọc Hoàng phán:
– Ngươi mau trở về báo cho vua ngươi biết: Lưới trời lồng lộng, thưa mà không thể lọt. Trần hoàn lóc lóc, có cầu có nguyện tất được tòng tâm. Hùng Huy vương mù quáng kiêu căng, rông càn làm lễ vật giả dối. Đó là do trời báo phạt, không chỉ giáng bấy nhiêu tai ương mà thôi. Ba năm sau tất sẽ có nạn giặc lớn!
Nghe phán xong, bà mo liền tỉnh lại. Bà mo tâu lại mọi chuyện với vua. Huy vương nghe nói cả kinh, vẫn cho bà mo ở lại trong cung để nghiệm xem lời nói của bà ta có nghiệm hay không.
Huy vương lại sai triều quan dựng đàn ở Trung Đô, các lễ vật như voi ngựa vàng bạc đều dùng đồ vật thật ở trung cung. Khi lễ nghi đã đầy đủ, vua thân lên đàn đọc văn khấn tế:
– Ngu si lầm lỗi, đem vật uế dâng lễ Hoàng thiên. Sự hãy nhãn tiền, xét xem đủ thấy. Cúi xin Thượng đế chuyển hoạ làm lành, đội ơn vạn hạnh. Ngu si cúi ngước, cậy nhờ ơn đức Hồng quân!
Vua khấn xong, bỗng thấy mây cuồn gió cuộn nổi lên, trời mung lung chuyển sắc. Khói hương trên đàn tế bay lên hoà sắc cùng mây lành đang toả xuống.
Hùng Huy vương thảng thốt kinh sợ, khấu đầu lạy tạ rồi lên xe về cung. Vua lại sai bà mo lên thiên đình xin Hoàng thiên tha tội để nước nhà được yên. Bà mo trở về tâu với Huy vương:
– Vua biết hối lỗi, đã được Hoàng thiên xét soi. Tuy năm sau có giặc xâm lăng, nhưng trời cho nhân tài sinh ra để giúp nước, vua khỏi phải lo nghĩ nhiều!
Vua tin lời. Quả nhiên ba năm sau bỗng có tin từ biên cương đưa về cáo cấp: Tướng giặc Ân là Thạch Linh thần tướng khởi binh từ Bắc đạo tiến sang, giáo mác giáp trụ liên tiếp kín trời, tinh kỳ rợp đất, quả đúng như lời bà mo đã nói.
—o—o—o—
Thực ra trước khi có giặc Ân, thì đất nước đã có giặc giã và dịch bệnh gọi là giặc Ma lôi, giặc quỷ Mũi đỏ (Xích Tỵ) và giặc Xích Quỷ. Nhân dân ở đâu tự đứng lên chống giặc và chống dịch bệnh ở đó.
Dân làng Vĩnh Ninh (nay là làng Vĩnh Ninh, xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, Hà Nội) đã theo Xà Công (Ông Rắn) và Bạch Công (Ông Đất) đánh giặc Ma Lôi và Xích Tỵ (giặc Mũi Đỏ).
Dân làng Đồng Kỵ (nay là làng Đồng Kỵ, thuộc phường Đồng Kỵ, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) theo ngài Thiên Cương chống giặc Mũi Đỏ.
Dân làng Hà Lỗ (nay là thôn Hà Lỗ, xã Liên Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội) theo hai anh em ngài Vũ Dục Công và Vũ Minh Công chống giặc Mũi Đỏ. Vua phong Vũ Dục Công là Khâm thiên nguyên soái và Vũ Minh Công là Minh nghị triều chính đại tướng công.
Sau khi thắng giặc, các vị trên đều được dân làng ở các nơi thờ làm thành hoàng cả.
Ở Bỉm Sơn, Thanh Hoá, có thần Độc Cước cũng chống giặc Mũi Đỏ, không rõ thời nào.
Tuy nhiên, khi giặc Ân kéo vào cướp nước Văn Lang, chúng rất hung hăng tàn ác, chưa ai chống được. Cầm đầu quân giặc là một viên tướng tên gọi Ân vương, hình dung cổ quái dữ tợn. Giặc Ân đi đến đâu là đốt phá nhà cửa, giết người cướp của đến đấy.
Trước khi Gióng ra đời, vùng ven sông Tô Lịch (Hà Nội) đã có ông Lý Tiến vâng mệnh vua Hùng cầm quân chống giặc Ân. Trong trận chiến ở Vũ Ninh (nay là Quế Võ), không may ông bị tên bắn vào ngực, ông chạy về chết ở quê nhà. Ngày nay ở phố Hàng Cá, Hà Nội, còn mộ và đền thờ ông, là đình Hàng Cá.
Sau Lý Tiến có hai anh em ông Dực và ông Minh ở Hà Lỗ, đã từng đánh giặc Mũi Đỏ, cũng đánh giặc Ân nhưng không thắng.
Thiên Cương tướng quân từng dẫn quân Văn Lang đánh tan giặc Mũi Đỏ, nhưng nay đánh không lại được giặc Ân.
Hùng Vương sai Lạc tướng là Dương Minh Thắng đi đánh giặc Ân ở đất Đồng Kỵ – Từ Sơn, Bắc Ninh nhưng cũng không thắng.
Vua Hùng lại phong cho hai tướng Trương Chiêu là Chiêu Ứng đại vương, Trương Tuấn là Nội minh đại vương đem quân trấn thủ ở huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn chặn giặc Ân, nhưng sau nhiều trận giao tranh không phân thắng bại.
Trước tình thế nguy nan, vua Hùng cho triệu Hùng Linh Công (cháu ruột vua Hùng thứ 6 – theo Ngọc phả quốc lục) về triều. Linh Công tâu rằng “Vua sai tới đó không dám từ nan. Đất này đánh thì khó, giữ thì dễ vì dựa vào mép sông”.
Vua liền ban cho Hùng Linh Công thanh kim đao và 3 vạn binh mã đi tiên phong cự chiến. Hùng Linh Công vâng lệnh, bái tạ trước bệ rồng, xuất quân đánh giặc. Khi đến đất Hiệp Hòa, vị tướng này còn chiêu mộ thêm hàng trăm dân khỏe mạnh. Hùng Linh Công trú quân tại đây, kiên trì giữ vững để bồi dưỡng binh sĩ trước khi xuất quân đánh trận.
Trước tình thế nguy nan, Hùng Huy vương bèn cho đắp đàn tế, trai giới tịnh khiết rồi lên đàn thắp hương cầu khấn. Các quan triều đến dự hội tế suốt trong ba ngày. Sau đó mưa to sấm gió nổi lên, bỗng thấy một cụ già thân cao hơn 9 thước, mày râu bạc phơ đang cười nói nhảy múa ở chỗ ngã ba đường, ai trông thấy cũng phải lấy làm lạ, cho là bậc kỳ nhân. Quan hầu vào tâu vua, vua đích thân ra đón mời vào đàn tế, nói với kỳ nhân rằng:
– Nay quân Bắc sang xâm lăng, thắng thua chưa biết thế nào, xin lão ông cho chỉ giáo. Lão ông trầm ngâm hồi lâu, rút thẻ bói quẻ rồi đáp:
– Nếu tìm được người thì giặc này không đáng phải đánh dẹp!
Nói xong cụ già vút lên không bay đi. Vua thấy vậy biết đó là lời dạy của Lạc Long quân. Thế là vua sai người hầu đi tìm khắp nơi trong nước.
—o—o—o—
Lại nói về trước đó ba năm, ở làng Gióng Mốt (nay là thôn Đổng Viên xã Phù Đổng và thôn Đổng Xuyên, xã Đặng Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội) có một người phụ nữ phúc hậu sống một mình, hàng ngày chăm chỉ ruộng vườn.
Một đêm Ông Đổng – thần mưa về hái cà ở làng, khiến trời mưa to gió lớn. Khi đi ông để lại một vết chân to kì lạ ở ruộng cà của bà.
Sáng hôm sau bà ra ruộng vô tình giẫm phải vết chân ấy, về nhà thì thụ thai. Sợ dân làng dị nghị, bà bèn bỏ lên rừng Trại Nòn (nay là xóm Ban, làng Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội) để ở. Sau 12 tháng bà sinh ra một bé trai, đặt tên là Gióng.
Trời bỗng cho nhiều cua ốc để bà ăn lấy sữa nuôi con, cho bà liềm đá, thống đá, chõng đá để bà cắt rốn, tắm rửa và đặt con nằm. Chú bé rất bụ bẫm, khôi ngô nhưng ba năm cứ nằm trơ trơ chẳng biết nói năng gì khiến bà mẹ rất buồn phiền.
Tới làng Gióng (nay là xã Phù Đổng, huyện Tiên Du, Bắc Ninh), nơi một gia đình có đứa trẻ ba tuổi còn không biết nói, nằm ngửa không ngồi dậy được.
Nghe tiếng sứ giả rao cầu hiền tài đánh giặc Ân cứu nước, người mẹ của Thánh Gióng mới nói giỡn rằng: “Sinh được thằng con trai này chỉ biết ăn, không biết đánh giặc để lấy thưởng của triều đình, báo đáp công bú mớm”.
Người con nghe thấy mẹ nói, đột nhiên bảo: “Mẹ gọi sứ giả tới đây”.
Người mẹ rất lấy làm kinh ngạc, kể lại với hàng xóm. Hàng xóm cả mừng, tức tốc gọi sứ giả tới. Sứ giả hỏi: “Mày là đứa trẻ mới biết nói, mời ta đến làm gì?”.
Đứa trẻ nhỏm dậy bảo sứ giả rằng: “Mau về tâu với vua rèn một ngựa sắt cao mười tám thước, một thanh kiếm sắt dài bảy thước, một roi sắt và một nón sắt. Ta cưỡi ngựa đội nón ra đánh, giặc tất phải kinh bại, vua phải lo gì nữa?”.
Sứ giả mừng rỡ vội về tâu vua. Vua Hùng vừa kinh hãi vừa mừng nói rằng: “Ta không lo nữa”.
Quần thần tâu: “Một người thì làm sao mà đánh bại được giặc?”. Vua Hùng một lòng tin tưởng, sai người làm y như lời cậu bé nói.
Để chuẩn bị vũ khí cho Gióng, dân chúng đã phải tập hợp toàn bộ thợ rào (tức thợ rèn) của ba làng Phù Đổng (quê Gióng), Làng Mòi (tức Mai Cương, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh), và Làng Na (tức Y Na, huyện Quế Võ, Bắc Ninh) để rèn vũ khí. Theo các bậc cao niên trong làng Mòi (nay là xã Cách Bi, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh), xưa kia những người thợ rào (thợ rèn) đã họp lại rất đông ở làng Mòi để rèn ngựa sắt cho ông Gióng. Cồn Phó lò, cồn Cây táo trong, cồn Cây táo ngoài hiện còn ở bên rìa làng là đe rèn ngựa của các ông phó rào ngày xưa, 99 ao chuôm chi chít vây lấy làng chính là dấu chân ngựa sắt đã rèn xong được đem dạo thử, trước khi dắt đến cho ông Gióng. Ở làng Mòi hiện vẫn còn dấu tích nghè thờ Tổ sư thợ rào đã rèn đồ sắt cho ông Gióng gọi là Nghè Ba Chạ.
Từ khi gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi, cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa may xong đã chật. Bà mẹ nghèo không thể nuôi nổi Gióng vì mỗi bữa Gióng ăn “bảy nong cơm, ba nong cà, uống một hơi nước cạn đà khúc sông”. Dân làng kìn kìn gánh gạo gánh cà đến phụ với bà mẹ nuôi Gióng. Các cô gái ra sông gánh nước về nấu cơm, muối cà cho Gióng ăn; còn các bà mẹ suốt ngày ngồi bên khung cửi dệt vải may áo cho Gióng.
Khi vũ khí được mang đến, Gióng vươn vai thành một tráng sĩ to lớn khác thường, mặc giáp sắt, cầm gậy sắt, oai phong lẫm liệt. Áo may to rộng là thế mà không đủ che kín mình, bọn trẻ chăn trâu trong vùng vội chạy đi bẻ bông lau bồn sậy giắt thêm quanh người Gióng.
Ngựa sắt hí vang, phun lửa cháy mấy làng bên cạnh, nên có ngôi làng tên là làng Cháy hay làng Roi Sóc (nay xã Phù Chẩn, Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh).
Gióng nhảy lên mình ngựa, hô to “Có ai đi giết giặc với tôi không?”. Người theo Thánh Gióng ra trận rất đông.
Đoàn trẻ chăn trâu làng Hội Xá (nay là thôn Hội Xá, phường Phúc Lợi, quận Long Biên, Hà Nội) người đi câu vác cả cần câu, người đi săn vác cả cung nỏ, hổ (bị người săn) giờ cũng nhập vào đoàn quân của Gióng … Làng Hội Xá có tục hát Ả Lao mô tả câu chuyện này, cho nên có câu “Phi Ải Lao bất thành hội Gióng”
Quách Nhân (Ông Cầm Vồ) ở làng Trung Mầu (Gia Lâm, Hà Nội), đang cầm vồ đập đất giữa ruộng, nghe tin Gióng đi đánh giặc liền bỏ dở công việc vác vồ đi theo. Vì vậy ở đình Trung Mậu có thờ ông Cầm Vồ, cứ đến hội Gióng người ta đều rước ông Cầm Vồ lên đền Gióng dự hội.
Ở Võ Giàng (nay là Quế Võ) có hai anh em đang đập đất cũng vội vàng đi theo. Anh ở làng Cán (Can Vũ, Bắc Ninh), em ở làng Ngườm (Nghiêm Xá, Bắc Ninh). Một hôm đang làm ruộng thì nghe tin quân ông Gióng đánh giặc Ân đi ngang qua làng liền cầm vồ đến gặp xin đi theo. Sau khi thắng trận hai anh em theo Gióng lên Sóc Sơn. Gióng hóa ở đấy, còn họ về quê ít lâu sau cũng hóa luôn. Chiếc vồ của người em bằng tre về sau biến thành rừng tre, chiếc vồ của người anh bằng gỗ sau biến thành rừng gỗ.
Ở làng Na có năm anh em sinh năm cũng mộ quân đi theo Gióng. Ở làng Y Na có một bà mẹ ăn ở tốt, một hôm có cầu vồng ngũ sắc hiện lên trời và sa xuống thẳng người đàn bà này,sau đó bà mang thai năm người con trai. Lớn lên năm anh em xung phong đi đánh giặc Ân dưới sự chiêu mộ của vua Hùng nhưng không thắng, phải rút về. Sau này họ đến nhập hội với ông Gióng ở núi Trâu. Đánh bại giặc Ân, năm người được vua Hùng thưởng cho vùng đất Vũ Ninh nắm giữ rồi hóa tại đây. Về sau làng Y Na chia làm hai: Làng anh giữ tên Y Na và thờ ba ông đầu, làng em lấy tên làng Bò (nay là Bò Sơn) thờ hai ông sau. Hai làng kết nghĩa lâu đời, từ đó đến nay trai gái hai làng không lấy nhau
Dục và Minh là an hem sinh đôi ở làng Hà Phong (nay là xã Liên Hà,Đông Anh, Hà Nội), trước kia đã đánh giặc Mũi Đỏ, nay ra quân đánh giặc Ân nhưng thất bại, về sau phải nhập quân với ông Gióng ở làng Rỗ. Sau khi Gióng lên trời, người em phi ngựa đến gò Hà Nham núi Độc rồi biến mất, người anh sau này cũng hóa ở làng Tuy Xá (Đại Từ, Thái Nguyên)
Theo sự tích núi Tam Đảo, con thứ của vua Hùng là Lang Liêu cũng mang quân từ kinh đô Phong Châu hội quân với Gióng. Trên đường đi thì có người con gái tên là Ngọc Tiêu dẫn người từ núi Tam Đảo đến tụ nghĩa dưới trướng của quân đội Lang Liêu. Sau đó Lang Liêu, Ngọc Tiêu cùng dẫn quân theo tụ nghĩa với nghĩa quân của Gióng.
Khi thấy quân đội Văn Lang của Thánh Gióng đến gần bộ Vũ Ninh, các danh tướng của vua Hùng là Hùng Linh Công, Dương Minh Thắng, Trương Chiêu, Trương Tuấn liền dẫn binh đến tiếp ứng. Rồi cả Thiên Cương tướng quân cũng theo Gióng đánh giặc.
Chiến trường của Thánh Gióng là núi Trâu Sơn, thuộc bộ Vũ Ninh. Vùng núi Trâu Sơn được cho là vùng núi Châu Cầu xã Châu Phong, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, góc giữa sông Cầu và sông Đuống của Lục Đầu Giang.
Chân ngựa dẫm lún cả đất thành ra những ao chuôm nằm rải rác dọc các đường cái. Phân ngựa rơi vãi thành đá ong, xỉ sắt, hiện còn thấy ở những nơi khi Thánh Gióng thắng cương ngựa ngang qua như xã Quế Tân, làng Dũng Quyết xã Việt Hùng…
Kíp đến lúc quân nhà Ân tới chân núi Trâu Sơn ở Vũ Ninh, Thánh Gióng dẫn đại quân Văn Lang xông đến tiến sát đồn giặc nhằm đánh nhanh thắng nhanh. Quân giặc đi đường xa mệt mỏi nên khi bị đánh bất ngờ thì nhanh chóng hỗn loạn.
Lưỡi gươm của Gióng vung lên loang loáng như chớp giật. Quân giặc xông ra chừng nào chết chừng ấy. Ngựa thét ra lửa thiêu cháy từng dãy đồn trại, lửa thiêu luôn cả mấy khu rừng. Khói bụi mịt mù, tiếng la hét kêu khóc như ri. Nhưng tướng giặc Ân vương vẫn cố gào thét hô quân xáp tới, Gióng càng đánh càng khỏe, thây giặc nằm ngổn ngang đầy rừng.
Ân vương xông đến chém gãy gươm của Gióng. Không bối rối, Gióng thuận tay nhổ những bụi tre hai bên đường, quật tới tấp vào các toán giặc.
Khi roi sắt gãy, Thánh Gióng nhanh tay nhổ những búi tre ngà. Nơi bụi tre bị nhổ tạo thành một đầm rộng bằng bảy gian nhà lớn nên nay đầm vẫn được gọi là đầm Thất Gian, ở phía Đông Bắc làng Thất Gian (xã Châu Phong, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh).
Bụi tre quật vào quân giặc bị tung ra thành nhiều nhánh, văng khắp ruộng đồng vùng Vũ Ninh, nên ngày nay ta còn thấy trên những cánh đồng Quế Võ, Gia Lương, Thuận Thành thỉnh thoảng còn có những bụi tre nho nhỏ mọc lúp xúp bên bờ ruộng, đó là những nhánh tre bị văng ra từ bụi tre khổng lồ kia.
Quân giặc bỏ chạy, còn lại tên nào đều la bái kêu lạy Thánh Gióng rồi cùng đến hàng phục. Quân đội Văn Lang của Hùng Vương cũng như dân các làng chỉ còn việc xông ra trói nghiến chúng lại.
Ân vương bị quật chết tan xác, ngựa của hắn bị một gậy của Gióng đứt lìa đầu khỏi cổ, cái đầu văng đến tận chân dãy núi Phả Lại, nay ở đó còn một hòn núi độc gọi là hòn đầu ngựa.
Không đầy một buổi, Gióng đã trừ xong nạn nước. Nhà Ân đời đời, 644 năm sau không dám ra quân đánh nước Văn Lang nữa.
Giặc đã dẹp yên.
Những người dân theo Gióng đánh giặc từ biệt chàng trở về quê hương.
Bọn trẻ chăn trâu làng Hội Xá cũng trở về cởi dây buộc trâu mà chăn dắt chúng.
Bên quân Văn Lang thì Thiên Cương tướng quân tử trận, được lập đền thờ ở làng Đồng Kỵ, gọi là Thiên Cương thần tướng. Trong hai tướng tử trận được phong thần, Lý Tiến giữ năng lượng nước trong bộ đất nước mở đầu cho chiến dịch của Thánh Gióng và Thiên Cương giữ năng lượng hoả khí (tượng trưng bởi pháo đùng trong lễ hội làng Đồng Kỵ).
Giặc tan, Hùng Linh Công lui quân về xã Hiệp Hòa, theo truyền thuyết thì ông này cũng bay về trời.
Trương Chiêu, Trương Tuấn quay về kinh đô Phong Châu (2 năm sau, hai ông này vâng lệnh vua Hùng đi dẹp giặc Ô Lý ở Châu Hoan. Thắng trận rồi cũng bay về trời).
Quan lang Lang Liêu cũng về Phong Châu. Người con gái tên Ngọc Tiêu cùng Lang Liêu đánh giặc Ân xong thì về lại núi Tam Đảo (sau này Lang Liêu kế vị làm vua Hùng thứ bảy thì lên núi Tam Đảo đón nàng về kinh đô Phong Châu làm vợ).
Lạc tướng Dương Minh Thắng ở lại bộ Vũ Ninh lập doanh trại, đóng đồn bảo vệ lãnh thổ Văn Lang lâu dài.
Thắng trận, Thánh Gióng buộc ngựa vào hai cọc đá lớn bên làng Cựu Tự (xã Ngọc Xá ngày nay) rồi ngồi nghỉ. Ngày nay một cột đá còn thấy ở làng Cựu Tự cao khoảng ba thước vòng rộng sáu tấc, xâu thẳng xuống một bệ đá tự nhiên hình bầu dục.
Ngựa sắt sùi bọt mép hóa thành bãi cát trắng xoá, đó là bãi Bùng hay Bạch – nhạn – xa, thuộc làng Cựu Tự, một bãi cát tự nhiên, màu trắng rộng ngút ngàn.
Thánh Gióng đi qua một làng nọ ven sông Cầu, ở đây có một bà lão bán nước vối. Thánh Gióng dừng lại xin nước uống. Bà lão dâng bầu rượu. Uống xong, Thánh Gióng khen bà lão có lòng tốt, đặt tên là làng Bầu và dặn lúc nào hạn, cho phép cầu mưa sẽ linh nghiệm. Từ đấy, mỗi khi đại hạn, ở đây (nay gồm bảy làng gọi là tổng Bầu) có hội cầu mưa, người ta thường rước thành hoàng làng lên Sóc Sơn để xin nước.
Chàng ghé thăm làng Mòi (tên chữ là Mai Cương), nơi dân làng đã rèn ngựa sắt cho mình. Khát nước, chàng quỳ gối, rướn mình uống nước ở giếng làng Bưởi Nồi (Gia Lương, Bắc Ninh). Chàng vừa ăn trầu nên nước quết trầu còn làm giếng làng có màu đỏ đến tận bây giờ.
Uống nước xong, chàng phi ngựa đến bến Bồ Đề, dừng lại nghỉ chân bên bờ sông Hồng. Dấu chân ngựa Gióng còn in trên một phiến đá lớn tại thôn Phú Viên (Gia Lâm).
Từ nơi đó, chàng phóng ngựa qua sông Hồng, lại ngồi nghỉ bên Hồ Tây nghe gió hồ mát rượi. Rồi chàng ngả nắm cơm khổng lồ bà mẹ và dân làng gói cho ra ăn, xong đánh một giấc ngon lành. Tỉnh dậy, chàng một mình một ngựa ra đi, bỏ quên lại nửa thanh gậy sắt.
Dân làng bên hồ hè nhau khiêng nửa thanh gậy ấy về, lập đền thờ. Nay đền vẫn còn ở đầu làng Xuân La, bên bờ Hồ Tây.
Tráng sĩ qua vùng Đông Anh, lại qua Phủ Lỗ.
Đền Sọ thờ Thánh Gióng ở xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, do 3 tổng Phù Xá, Xuân Nộn, Phù Lỗ cùng chung lo việc thờ cúng và tổ chức lễ hội, mang tên Kẻ Sọ, tên nôm gọi là Sổ, đầu công nguyên thuộc tổng Vũ Ninh, huyện Phong Châu. Theo truyền tích, đền Sọ là nơi Thánh Gióng đã dừng chân gội đầu, nghỉ lại tại đây. Hiện ở đền còn có giếng, tương truyền là nơi Thánh đã gội đầu. Trong các cổ vật của đền rất lưu ý có một tấm bia đá ghi nhận rõ về việc 54 xã trong Tam tổng phụng thờ Phù Đổng Thiên Vương.
Rồi phi ngựa lên núi Sóc, hai bên đường Gióng đi qua, đất nước đã thanh bình, đồng ruộng xanh tươi, dân cư yên ổn làm ăn, vết chân ngựa của chàng để lại ao chuôm san sát.
Trước khi lên núi, chàng còn ngồi nghỉ với bọn trẻ chăn trâu ở Kẻ Khốn. Bọn trẻ lấy nón vục nước dưới khe mát rượi mời Gióng uống. Chàng hỏi tên làng, biết tên là Kẻ Khốn, chàng bảo: “Làng mát và đẹp thế này, sao lại tên là Khốn, về nói với các cụ trong làng đổi tên là Kẻ Mát nhé”. Từ đó làng có tên là Kẻ Mát.
Từ Kẻ Mát, Gióng phi ngựa lên núi Sóc. Chàng ghìm cương ngựa, cởi áo giáp vắt lên cây trầm già (cây đó nay vẫn còn trên đỉnh núi, người dân gọi là “Cây cởi áo”), chàng quay mình nhìn lại quê hương rồi một người một ngựa bay thẳng lên trời, mất hút trong mây xanh như mãi mãi hóa thân vào non sông đất nước.
Dân lập đền thờ người anh hùng ngay dưới chân núi Sóc, quanh năm hương khói. Nhà vua nhớ công ơn phong Người là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ ngay tại quê nhà.
Từ đó, mỗi khi trời hạn, dân thiếu nước làm ăn lại lên đền Phù Đổng hay đền Sóc cầu đảo thì đều ứng nghiệm. Đặc biệt, bọn trẻ chăn trâu mà cầu đảo thì trời bao giờ cũng cho mưa lớn.
Ngựa Gióng đi đến đâu, vết chân để lại đến đó
– Dấu chân ngựa trở thành ao, hồ, đầm, chuôm
– – Bắc Ninh : 99 ao đầm xung quanh các làng rèn sắt cho Thánh Gióng như ở xã Châu Phong, Ngọc Xá, Việt Hùng, Phượng Mao theo Quốc lộ 18 cho đến Bằng An, Nhân Hòa theo đường 279.
– – Đông Anh : Một số ao đầm ở huyện Đông Anh
– – Sóc Sơn : Ngòi Kim Anh, Sóc Sơn và hệ thống ao đầm ở huyện Sóc Sơn. Một trong những dấu chân ngựa cuối cùng (gọi là dấu chân kép) của Thánh Gióng trước khi lên núi Đá Chồng, bay về trời hoá là cái chuôm ở trước cửa chùa Quảng Hội ở làng Quảng Hội, nay là thôn Quảng Hội, xã Quang Tiến, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.
– – Thái Bình : Đền Sóc Lang hay còn gọi là Từ Lang, thôn Đông Vinh, xã Vũ Vinh, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Đền Sóc Lang thuộc “tứ linh từ” của huyện Chân Định xưa. Tương truyền, phía trước đền Sóc Lang có hai hồ nước là dấu chân ngựa sắt của Thánh Gióng lúc đuổi giặc ở phía Đông Nam.
– – Đình Nội Mai, xã An Viên, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên : Phía trước đình có 3 gò đất thiên tạo, phía sau là 7 dấu chân ngựa của Thánh Gióng.
– Dấu chân ngựa in trên đá.
– – Đền Thọ Trai, khu phố Thọ Trai, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn thờ đức thánh Phù Đổng Thiên Vương : Theo truyền tích của địa phương, làng Thọ Trai có từ thời Hùng Vương là nơi Thánh Gióng đánh giặc Ân qua đây được nhân dân thổi cơm cho ăn. Dấu chân ngựa của Thánh Gióng còn in dấu ở phiến đá nơi rừng cây phía Tây đầu làng. Về sau nơi đấy dân làng Thọ Trai đã lập đền thờ Thánh Gióng.
Những cây tre mà Gióng nhổ quật vào giặc bị lửa đốt màu xanh ngả thành màu vàng và có những vết cháy lốm đốm, ngày nay giống ấy vẫn còn, người ta gọi là tre là ngà (hay đằng ngà).
—o—o—o—
Sau khi Thánh Gióng đã hoá về trời thì mẹ Thánh Gióng gặp nạn.
Thủa ấy sông Hồng xuất hiện nhiều thuồng luồng chuyên ăn thịt người, ngày kia, có bà mẹ của Thánh Gióng ra bến đò Dấp gánh nước thì đột nhiên hai con thuồng luồng lao tới cuốn bà ra xa bờ. Bà bị con thuồng luồng cái nuốt dần vào bụng, mới ngẩng mặt lên trời ca thán: “Trời ơi! Người ta sinh con mong để cậy nhờ, còn tôi có con mà cũng như không thế này!”. Dứt lời, bỗng có vị thần khổng lồ trên mây cao xanh sà xuống, chàng căm giật đứng choại chân sang bên bờ sông, lưng gập xuống, đưa hai tay khoắng nước từ ngã ba Bạch Hạc đến ngã ba Tuần Vường. Chàng trai đã kịp tóm cổ nó mang lên bờ, vuốt ngược bụng con thuồng luồng cái lấy xác mẹ ra. Sau đó, chàng đưa cả hai con thủy quái xuống lòng bàn chân nhấn sâu xuống bùn đen. Chàng táng mẹ vào lòng bàn tay trái để “mẫu bất ly thân” hóa thành ngôi bảo tháp, xong đâu đấy, chàng bước lên bãi ven sông rồi bay về trời. Bến sông làng Dấp để lại ba dấu chân lõm sâu xuống đất. Chỗ vết chân cuối chàng “xung thiên” hóa dân lập đền chính, còn hai vết chân kia dân lập miếu thờ. Làng Dấp có tên gọi là Bộ Đầu (nghĩa là bước chân) từ đấy…
Nay ở làng Bộ Đẩu (xã Thống Nhất, huyện Thường Tín, Hà Nội) vẫn còn chùa Bộ Đầu thờ Thánh Gióng và bia đền Quan Thánh cũ (đền Quán Thánh được xây bởi chúa Trịnh, mà nay đã bị sập). Sự tích Thánh Gióng ở làng Bộ Đẩu có tên là “Đổng Sóc Thiên Vương Huyền Thiên Đại Thánh báo ân Mẹ”.
Mẹ của Thánh Gióng theo sự tích ở làng Bộ Đẩu có tên là Bùi Thị Dung, vợ của đại quan họ Đổng Gia, sinh ra Thánh Gióng khi có đoá sen hồng rơi xuống bụng, nghĩa là bố của Thánh Gióng vẫn luôn là ông Đổng như tích của làng Phủ Đổng.
Chia sẻ:
Scroll to Top