ĐÀN GẢY TAI TRÂU

Loading

TƯỚNG TAI TRÂU
Lá bàng tai trâu, sầu đâu chân chó
Chỉ quãng thời gian mùa xuân từ tháng hai trở đi. Theo Vũ Bằng (Thương nhớ mười hai) : Trên các cành bàng, lá non hé mở và cuốn lại, chưa bung ra hết, y như thể tai trâu, còn cây sầu đâu thì từ khoảng này cũng trổ lá non nhưng nhúm lại với nhau thành một hình tròn như vết chân con chó để lại trên mặt đất, sau một đêm mưa tuyết.
Tai lá mít, đít lồng bàn.
Cái tai trâu to dầy dáng như lá mít, đít trâu nở nang tròn đầy như cái lồng bàn là tướng trâu quý.
Vành mồm trắng, mắt tai to,
Hễ thưa lông bụng, móng hài cũng mua.
Trâu có tai to là tướng trâu quý.
Trâu hoa tai, bò gai sừng.
Trâu mà có vết vân vân ở trong tai như cái hoa tai và bò sừng sần sùi, có gai thì là trâu bò xấu hại cho chủ. Vân là cấu trúc sóng, dường như không hợp với tai trâu mà hợp vói sừng trâu
—o—o—o—
ĐÀN GẢY TAI TRÂU
Tai trâu không cảm ứng, nói cách khác là đóng hay điếc, với các sóng âm uyển chuyển phát ra từ các nhạc cụ dây.
Đàn đâu mà khảy tai trâu,
Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi.
Thành ngữ “đàn gảy tai trâu” trong tiếng Hán là Đối ngưu đàn cầm, bắt nguồn từ một điển cố nổi tiếng thời Chiến Quốc (475-221 TCN) trong lịch sử Trung Hoa. Câu chuyện xoay quanh một nhạc sĩ tài ba tên Công Minh Nghi, người được ca ngợi với tiếng đàn lay động lòng người.
Một ngày nọ, Công Minh Nghi mang đàn lên một ngọn đồi để vừa ngắm cảnh, vừa chơi bản nhạc “Thanh giác chi tao” (một khúc nhạc thanh cao và tinh tế). Khi nhìn thấy một con trâu đang thong thả gặm cỏ gần đó, ông nảy ra ý định “trình diễn” khúc nhạc ấy cho “thính giả đặc biệt” này. Tuy nhiên, dù tiếng đàn vang lên du dương, con trâu vẫn thản nhiên gặm cỏ, không mảy may phản ứng.
Sau khi quan sát, ông nhận ra vấn đề không nằm ở tiếng đàn mà do bản nhạc quá cao nhã, vượt ngoài khả năng cảm thụ của con trâu. Ông liền chuyển sang khúc nhạc dân dã hơn, mô phỏng âm thanh gần gũi như tiếng ruồi bay, tiếng bê con gọi mẹ. Lúc này, con trâu bắt đầu dỏng tai lắng nghe vì những âm thanh này gần gũi và dễ hiểu với nó.
Câu chuyện về Công Minh Nghi sau đó được nhắc lại vào cuối thời Đông Hán qua lời của Mâu Dung – một người tinh thông cả Phật học lẫn Nho học. Khi các học trò hỏi vì sao ông thường mượn kinh điển Nho giáo để giảng giải đạo Phật, ông kể lại điển tích “đàn gảy tai trâu” như một minh chứng cho việc hiểu đúng đối tượng để truyền đạt phù hợp, khiến mọi người tâm phục khẩu phục.
Tai trâu điếc với tiếng đàn
– Không có nghĩa là tai trâu điếc với các âm khác : Tiếng đánh trống hay ra lệnh, tai trâu có thể nghe bình thường
– Cũng không có nghĩa là trâu điếc với tiếng đàn : Các âm thanh dạng dây được trâu nghe bằng sừng.
—o—o—o—
TÙ VÀ SỪNG TRÂU
Tù và là dụng cụ phát âm có hình dáng như cái loa, được làm từ vật liệu sừng tự nhiên, cho nên có tù và sừng trâu, tù và sừng bò, tù và ngà voi và tù và vỏ ốc. Kèn cũng có hình loa, nhưng không làm bằng sừng mà làm bằng kim loại như kèn đồng hoặc thân cây, cành cây là dang kèn gỗ.
Ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng
Ở làng quê Việt xưa, tù và là dụng cụ để báo tin của cộng đồng, như loa phường hiện nay. Những người thổi tù và làm công việc báo tin mà không có đãi ngộ, chính vì vậy có câu tục ngữ: “Ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng” hàm ý làm công việc chung, tốn công sức của cá nhân mà cá nhân không được lợi lộc gì.
Đưa nàng về tới cây trôm
Day lưng trở lại, sao Hôm đứng đầu
Tai nghe tù và thổi đầu cầu
Bưng cơm lên, để xuống, mảng vần không ăn
Sừng trâu truyền âm rất tốt, cho nên được dùng làm tù và, mà có cấu trúc giống cái loa đầu to là phát và đầu nhỏ là thu. Sừng trâu có cái đầu nhỏ để thu âm và cái đầu to để phát âm vào vùng đầu. Như vậy, sừng trâu là cái loa bắt sóng dây và phát cho con trâu nghe, còn tai trâu là cái phễu đón các hạt âm rơi vào
—o—o—o—
TƯỚNG SỪNG TRÂU
Đã có sừng thì đừng hàm trên.
Voi có ngà và lợn lòi có răng nanh mọc dài ra khỏi đầu, phát triển từ răng hàm trên, sừng trâu bản chất cũng vây. Nên trâu đã có cặp sừng to thì không cần có răng hàm trên nữa.
Răng là một dạng xương lộ ra khỏi da và cơ, nói cách khác xương khi hợp nhất với da và cơ, thành sừng. Tóc, lông, bờm, răng, móng, mỏ, cựa … bản chất đều là xương, da, cơ hợp nhất nên một chất liệu vô cùng bền chắc, là sừng. Sừng (xương hợp nhất với da và cơ, lộ ra ngoài) gọi là xẩu, tạo nên từ xương xẩu, nói cách khác là xương sừng.
Con trâu tên trong bộ địa chi gọi là con “sửu”, mà là biến âm của “xẩu” có nghĩa là sừng.
Trâu ác, vạc sừng.
Có câu hết nạc thì vạc đến xương. Xương kết hợp với da và cơ thì mới tạo nên sừng. Sừng mà bị vạc hết da cơ, chỉ còn xương thì chất sừng đó đã bị biến chất, không còn giữ được bản chất và sự cân bằng của sừng. Vạc sừng là cái sừng cứng và sắc nhọn như dao găm, vì chất cơ và chất da bị mất.
Vểnh sừng, tóc chóp, cửa nhà mang tai.
Răng là để cắn, để nắm giữ, nên đôi sừng trâu quý phải cong như vầng trăng. Ngược lại, sừng trâu vểnh ra như cái tai, thêm tóc ở chóp trán mà cũng đi với tai thành bộ “tóc tai”, ấy là trâu mang tai (tai ương, tai họa) cho chủ. Như trên đã nói, sừng trâu và tai trâu là hai bộ phận tiếp âm khác nhau, độc lập nhưng bổ sung cho nhau, sừng trâu mà giống tai trâu là rất nguy hiểm.
Sừng to, móng hến thì nuôi đúng rồi.
Sừng trâu là biểu tượng của con trâu và là bộ phận nổi bật tạo nên dáng oai vệ cho phân đầu trâu, nên sừng trâu to mới là tướng quý.
Sừng cánh cắt, mắt ông voi.
Cặp sừng trâu phải dang rộng ra như cánh chim cắt, tức chim phượng hoàng đất mới là trâu tốt.
Sà sừng, mắt lại nhỏ con,
Vụng giàn chậm chạp, ai còn nuôi chi.
Những con trâu mà sừng sà xuống là tướng trâu xấu, không chỉ kém trong việc đánh nhau mà cấy cầy cũng kém. “Vụng giàn chậm chạp” là vụng về và chậm chạp trong giàn cầy.
—o—o—o—
Giống như con trâu, dụng cụ thu âm của con người không chỉ là tai, mà còn là răng hàm trên, là hào quang, da, lông, tóc, móng và các cổng khác trên cơ thể. Điều quan trọng là mỗi cổng bắt một dạng âm khác nhau, như âm trời, âm đất, âm hoả, âm thuỷ …
Chia sẻ:
Scroll to Top