BỒ KẾT GỘI ĐẦU
Ca dao đưa ra bốn cách kết hợp của bồ kết, đều dựa trên âm dương thuận lý và nghịch lý song hành
– Bồ kết với chanh
– Bồ kết với phèn chua
– Bồ kết với mần trầu
– Bồ kết với mần trầu & sả
– BỒ KẾT & CHANH
Bồ kết và chanh kết hợp với nhau để gội đầu
– Bồ kết có tính mộc hoả,
– Chanh có tính kim thuỷ,
Tốt tóc thì cỏ mần trầu
Sạch ghét, sạch gầu bồ kết với chanh.
Tóc dài thì tốn tiền chanh
Nào ai bán tóc nuôi anh bao giờ
– BỒ KẾT & MẦN TRẦU
Bồ kết có thể kết hợp với mần trầu,
– bồ kết có tính xả, tính trôi xuôi, tính nối đất, tinh mượt,
– mần trâu có tính dưỡng, tính bông, tính hướng trời.
Bồ kết sạch đầu
Mần trầu tốt tóc
– BỒ KẾT & MẦN TRẦU, SẢ
Bồ kết kết hợp với mần trầu và sả theo hai cách khác nhau nhưng trong cả hai trường hợp
– Sả là củ mang tính đất, tính nóng, tính xả, tính phát tiết, tính kim, tính dương
– Mần trầu là ngọn, tính mát, tính lan toả, tính sóng, tính dưỡng, tính mộc, tính âm
Tốt tóc gội cỏ mần trầu,
Sạch đầu thì gội lá sả
– BỒ KẾT & PHÈN CHUA
Bồ kết kết hợp với phèn chua tương tự như kết hợp với chanh
Chợ Hàng Dầu một tháng sáu phiên
Gặp cô hàng xén kết duyên vừa rồi
Cái gánh hàng đây những quế cùng hồi
Có mẹt bồ kết, có nồi phèn chua
Bó hương thơm xếp để bên bồ
Trần bì, cam thảo, sài hồ, hoàng liên
Hàng em đáng giá bao nhiêu tiền?
Để ta xếp vốn ta liền buôn chung
Buôn chung, ta lại bán chung
Được bao nhiêu lãi, ta cùng chia nhau.
Bài này nghe qua giống như nói về cô hàng xén bán đồ gội đầu, trong đó bồ kết được kết hợp với phèn chua. Phèn chua, còn được gọi là kali alum, là một loại muối kép của kali và nhôm, có công thức hóa học KAl(SO4)2 hoặc KAl(SO4)2·12H2O (dạng ngậm nước). Nó thường được tìm thấy ở dạng tinh thể không màu hoặc trắng, có thể trong hoặc hơi đục. Phèn chua có vị chát, tan trong nước, đặc biệt là nước nóng, và không tan trong cồn.
Phố Hoài bốn tháng một phiên
Gặp cô hàng xén anh kết duyên vừa rồi
Gánh hàng cô những quế cùng hồi
Những mẹt bồ kết những nồi phèn chua
Bài này như bài trên vẫn nói về thề nguyền nam nữ, kết duyên và kết tóc xe tơ. Tuy nhiên điểm mâu thuẫn ở đây là duyên thì kết nhưng hàng xén thì cắt
Cả 4 cách sử dụng của bồ kết đều theo kiểu âm dương thuận nghịch.
—o—o—o—
BỒ : NGOÀI/HÌNH THỨC THUẬN LÝ, TRONG/BẢN CHẤT NGHỊCH LÝ
Xuyên suốt trong tất cả ca dao, tục ngữ về sự vật, sự việc, cây, con có tên bồ là âm dương nghịch lý đang được che dấu, bền ngoài một đằng, bên trong một nẻo, hình thức bên ngoài tưởng là thuận lý, nhưng bản chất bên trong là nghịch lý.
Các cây tên bồ
– Bồ kết : Bồ kết (tên khoa học: Gleditsia australis) là một loại cây thân gỗ, có gai rất dài, cứng và nhọn, quả cây dùng để gội đầu. Bồ kết thuộc họ vang, nhưng quả bồ kết lại rất giống quả đậu.
– Bồ hòn : Bồ hòn (tên khoa học: Sapindus mukorossi) là một loại cây thân gỗ, quả của nó có chứa chất saponin, một chất có khả năng tạo bọt và có tính tẩy rửa tự nhiên. Bồ hòn cũng được biết đến với khả năng kháng khuẩn, kháng nấm và làm dịu các bệnh ngoài da. Bồ hòn có khả năng tạo bọt như bồ kết, được dùng làm chất tẩy rửa. Bồ hòn hiện nay được coi là nguyên liệu là nước cốt gội đầu nhưng ca dao không hề nhắc tới công dung gội đầu của bồ hòn. Quan điểm cá nhân là tôi là không nền dùng bồ hòn gội đầu thay cho hoặc bổ sung cho bồ kết.
– Bồ đề : Bồ đề (tên khoa học: Ficus religiosa) là một loại cây thuộc họ dâu tằm, có hình dáng và kích thước tương tự như cây đa. Bồ đề được coi là một loại cây thiêng, cây giác ngộ, và gắn với đức Phật.
– Bồ bồ : Cây bồ bồ còn có tên khác là Chè đồng, Chè nội, Chè cát. Cây có tên khoa học là Adenosma indianum (Lour.) Merr, thuộc họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae).
– Bồ đào : Tên tiếng việt: Bồ đào. Tên khác: Nho, Ít (Tày). Tên khoa học: Vitis vinifera L.. Thuộc họ Nho (Vitaceae).
– Bồ quân : Bồ quân, cũng có nơi gọi là bù quân, mồng quân hoặc hồng quân, một loại cây bụi mọc hoang ở các vùng đồi núi, cho quả có hình dạng giống như quả nho, khi còn xanh thì có màu đỏ tươi, khi chín thì chuyển sang màu đỏ sẫm (tím), ăn có vị chua ngọt. Do màu sắc của quả bồ quân mà trong dân gian có cách nói “má bồ quân,” “da bồ quân…”
– Bồ công anh : Cây bồ công anh còn được gọi là diếp hoang, rau bồ cóc, mũi mác hay rau lưỡi cày, có tên khoa học là Lactuca indica – thuộc họ cúc Asteraceae.
– BỒ HÒN

Ca dao nói về bồ hòn với các đặc điểm mà thường xuất hiện ở dạng nghịch lý (bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo)
– đắng (đối với ngọt) : Ngậm bồ hòn làm ngọt
– tròn (đối với vuông) : Ghét nhau thì quả bồ hòn cũng vuông
– trôi lăn (đối với dừng lại, mọc rễ) : Gái có con như bồ hòn có rễ
– dai (đối với bùi): Bồ hòn thì bùi/Hương hoa thì hôi
Gái có con như bồ hòn có rễ
Gái không con như bè nghể trôi sông
Thương nhau củ ấu cũng tròn
Ghét nhau thì quả bồ hòn cũng vuông
Ngậm bồ hòn làm ngọt
Của ngon chẳng còn đến trưa
Bồ hòn có ngọt thì vua đã dùng
Đắng này xem tựa bồ hòn
Chát này xem tựa sung non ngậm vào
Có con phải khổ vì con
Có chồng phải ngậm bồ hòn đắng cay
Cụ là cha mẹ trong dân
Miệng nói thương cháu, tay lần túi con
Còn xu mua quả bồ hòn
Cụ cũng nắn lấy, thì con ngậm gì?
Bong bóng thì chìm
Gỗ lim thì nổi
Đào ao bằng chổi
Quét nhà bằng mai
Hòn đá dẻo dai
Hòn xôi rắn chắc
Gan lợn thì đắng
Bồ hòn thì bùi
Hương hoa thì hôi
Nhất thơm thì cú
Hay sủa thì trâu
Hay cày thì chó
– BỒ ĐỀ
Bồ đề liên quan đến
– âm dương thuận lý bao trùm hay vượt qua âm dương nghịch lý, hoặc
– âm dương thuận lý là gốc, để vận hành vượt qua âm dương nghịch lý
– chuyển bại thành thắng, chuyển nghịch thành thuận
Cây bồ đề rụng lá giơ xương
Chàng ơi cùng thiếp lấy gương che trời
Anh và em là quan hệ âm dương đồng thuận, lấy gương che trời là nghich
Cây bồ đề, lá cũng bồ đề
Bao giờ mới được ngả kề bên em
Anh và em là tình yêu đồng thuận, hiện đang gặp nghịch cảnh phải xa nhau, nhưng với năng lượng bồ đề, thì nghịch cảnh này sẽ vượt qua được
Khi xưa tôi ở với cô
Cô đập, cô đánh, cô xô tôi về
Tôi về ngang gốc bồ đề
Cô ra cô hỏi tôi về làm chi
Tôi về bắt ốc, hái rau
Mai sau tôi lớn, tôi giàu hơn cô
Bài này nói về quan hệ chủ tớ không đồng thuận, người làm gặp nghịch cảnh là bị cô chủ đuổi đánh, nhưng gặp cây bồ đề thì sẽ chuyển bại thành thắng, chuyển nghịch thành thuận
– BỒ QUÂN
Da bồ quân cởi quần không kịp
—o—
Bộ chim thú tên bồ
– Bồ nông
– Bồ các
– Bồ câu
Bao giờ cho hết tháng ba,
Bồ nông no ấm ở nhà nghỉ ngơi
Đây là bài ca dao ngược, vì tháng ba đồng ruộng đầy nước, đầy thức ăn, bồ nông sẽ đi kiếm ăn chứ không ở nhà nghỉ ngơi
Bắt chấy cho mẹ chồng, thấy bồ nông dưới bể
Bài này nói về điều không xảy ra. Bồ nông là chim nước ngọt, nước nông, không có ở bể là nước mặn, nước sâu. Nàng dâu cũng không có quan hệ thân thiết hay gần gũi về dòng máu để bắt chấy cho mẹ chồng.
Cái cò cái vạc cái nông
Cùng ăn một đồng nói chuyện giăng ca
Muối kia đổ ruột con gà
Mẹ mình chẳng xót bằng ta xót mình.
Cái cò cái vạc cái nông
Sao mày giẫm lúa nhà ông hỡi cò?
Không, không! Tôi đứng trên bờ
Mẹ con nhà vạc đổ ngờ cho tôi
Chẳng tin ông đứng ông coi
Mẹ con nhà nó còn ngồi đấy kia.
Cái cò cái vạc cái nông
Ba con cùng béo vặt lông con nào
Vặt lông con cốc cho tao
Tao nấu tao nướng tao xào tao ăn
Nghịch lý là có ba con chim nước để lựa chọn, nhưng lại vặt lông con chim cốc
Cái cò, cái vạc, cái nông
Ba con cùng béo, vặt lông con nào?
Vặt lông con vạc cho tao
Hành, răm, mắm muối bỏ vào mà thuôn
Nghịch lý là ba con cò, vac, nông thì con cò nổi tiếng là gày, con nông béo nhất, con vac lưng chừng, nhưng chọn con béo nhất lại là con vạc
Chim chích mà ghẹo bồ nông
Đến khi nó đánh, lạy ông tôi chừa!
Chim chích nhỏ, bồ nông to, chim chích gheo bồ nông là nghịch lý.
Sáo sậu là cậu sáo đen
Sáo đen là em sáo đá
Sáo đá là má bồ nông
Bồ nông là ông ác là
Ác là là bà tu hú
Tu hú là chú chim ri
Chim ri là dì chim xanh
Chim xanh là anh cò bợ
Cò bợ là vợ thằng Ngô
Thằng Ngô là cô sáo sậu
Sáo sậu là cậu sáo đen
Bài này nói về quan hệ họ hàng dây mơ rễ má giữa các loài chim.
Chim ra quân
Tùng tùng tùng tùng
Đánh ba hồi trống
Sắp quân cho chỉnh
Phượng hoàng thống lĩnh
Bạch hạc hiệp đồng
Tả chi thì công
Hữu chi thì sếu
Giang cao ngất nghểu
Đi trước tiên phong
Cả mỏ bồ nông
Đi sau tiếp hậu
Sáo đen, sáo sậu
Ran giục đôi bên
Chú quạ thông tin
Mang thư đi trước
Một đàn vịt nước
Chú két, chú le
Sắm sửa thuyền bè
Cho quân trẩy thủy
Còn loại bé tí
Chim chích chim ri
Bé mọn biết gì
Ở nhà coi sóc
Chú cò, chú cóc
Coi sóc các làng
Chèo bẻo nổ năng
Bầu cho làm huyện
Đêm hôm đi tuần
Phó cho chú vạc
Chú ngỗng nghếch ngác
Như thể đàn bà
Chú vịt chú gà
Nhắc võng ông già
Trèo lên núi Triều,
Giặc thấy đã nhiều,
Chạy như cun cút!
Bồ các là bác chim ri
Chim ri là dì sáo sậu
Sáo sậu là cậu sáo đen
Sáo đen là em tu hú
Tu hú là chú bồ các
Bồ các là bác chim ri
Bồ câu trong ổ bay ra,
Chân tay mềm mại, cổ hoa hột cườm
Thóc đi đâu bồ câu đi đấy
—o—
Bộ khoáng vật tên bồ
– Bồ hóng
Chê thằng bồ hóng
Đụng thằng đen thui
Chê thằng ghẻ ruồi
Đụng thằng ghẻ phỏng
Rau cần bồ hóng,
Rau muống phân trâu
—o—
Bồ (người)
– Bồ bịch : tình nhân, người yêu không công khai, bạn thân gọi nhau (đối kháng với người yêu khác giới tính)
Bởi anh chăm việc canh nông
Cho nên mới có bồ trong bịch ngoài
Ngày mùa tưới đậu trồng khoai
Ngày ba tháng tám mới ngồi mà ăn
—o—
Bồ (Phật)
– Bồ Tát
Nam mô bồ tát bồ hòn
Ông sư bà vãi cuộn tròn lấy nhau
Nam mô Bồ đề, Bồ Tát
Ông ăn chuối chát, ông ỉa không ra,
Ông nắm cột nhà, ông la làng xóm.
Của người thì Bồ Tát
Của mình thì lạt buộc
Nam mô Bồ Tát
Chẻ lạt đứt tay
Đi cày trâu húc
Đi xúc phải cọc
Đi học thầy đánh
Đi gánh đau vai
Nằm dài chết đói
Bồ (nhân vật)
– Bồ đề đat ma : tổ thiền tông Ấn Độ đời 18, sau sang Trung Quốc làm tổ thiền tông Trung Quốc đời thứ 1, dạy võ Thiếu Lâm Tự. Võ là động công, hiển lộ, thân thể, còn thiền là tĩnh công, ẩn giấu, tinh thần.
—o—
Bồ (dụng cụ)
– Bồ : bồ thóc là bồ dưỡng, bồ dựng dao găm là bồ sát thương, vì bồ có khả năng che dấu, ẩn chứa, nên nhìn ngoài thì không biết bên trong là lúa hay dao găm
– Bồ đài : Đồ dùng để múc nước, làm bằng mo cau gập và nẹp lại.
– BỒ ĐÀI :
Chuồn chuồn đánh giặc
Voi đậu bờ rào
Rộng nhất thì ao
Hẹp hòi thì biển
Đẹp nhất thì khỉ
Xấu xa thì tiên
Bong bóng thì chìm
Gỗ lim thì nổi
Đào ao bằng chổi
Quét nhà bằng mai
Tròn thì bồ đài
Méo thì miệng thúng
– BỒ THÚNG
Im như thóc đổ bồ
Dốc bồ thương kẻ ăn đong
Vắng chồng thương kẻ nằm không một mình
Cháu cậu mà lấy cháu cô
Thóc lúa đầy bồ giống má nhà ta
Dựng nhà dựng cửa
Thắp lửa hông xôi
Mua nồi cà nấu
Đập đá xây hồ
Đan bồ đựng thóc
Một năm chia mười hai kì
Em ngồi em tính khó gì chẳng ra
Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng hai rỗi rãi quay ra nuôi tằm
Tháng ba đi bán vải thâm
Tháng tư đi gặt, tháng năm trở về
Tháng sáu em đi buôn bè
Tháng bảy tháng tám trở về đong ngô
Chín, mười cắt rạ đồng mùa
Một, chạp vớ được anh đồ dài lưng
Anh ăn rồi anh lại nằm
Làm cho em phải quanh năm lo phiền
Chẳng thà lấy chú lực điền
Gạo bồ thóc đống còn phiền nỗi chi?
Miệng nam mô, bụng bồ dao găm
Lỗ miệng thì nói Nam mô
Trong lòng thì đựng ba bồ dao găm
Ngoài miệng thì tụng nam mô
Trong lòng thì đựng cả bồ dao găm
Nam mô một bồ dao găm
Một trăm giáo mác
Một vác dao bầu
Một xâu thịt chó
Một lọ mắm tôm
Một ôm rau húng
Một thúng rau răm
—o—o—o—
KẾT : TRƯỚC/NGOÀI KHÁC BIỆT, RIÊNG LẺ, SAU/TRONG THỐNG NHẤT, KẾT THÚC
Kết (cây)
– Bồ kết, chùm kết, phắc kết, bù kết, châm kết, mận kết, co kết ….
Kết (cung, sao)
– Ma kết
Kết (vận hành)
– Kết thúc
– Kết trái
– Kết chùm
– Kết chạ
– Kết giao
– Kết hợp
– Kết tủa : chất rắn tách ra từ chất lỏng
– Kết đoàn : âm dương thuận lý bên trong để chống lại âm dương nghịch lý bên ngoài
– Kết nguyền : Kết nguyền đôi lứa
– Kết duyên : Kết duyên vợ chồng
– Kết nghĩa : Kết nghĩa tương giao, Kết nghĩa Châu Trần
– Kết đôi : Kết đôi vợ chồng
– Kết tóc : Kết tóc xe tơ
– Kết sợi
– Tập kết
– Liên kết
– Đoàn kết
Đôi ta như thể con tằm,
Cùng ăn một lá cùng nằm một nong.
Đôi ra như thể con ong,
Con quấn con quýt con trong con ngoài.
Đôi ta như thể quân bài,
Chồng đánh vợ kết chẳng sai ván nào.
Đôi ta như thể con dao,
Năng liếc thì sắc, năng chào thì quen
Con chim mỏ đỏ
Cái lông nó nhỏ
Cái mỏ nó huỳnh
Nó kêu thục nữ ngoái lại cho quân tử nhìn
Phải duyên quân tử kết, phải tình quân tử thương
Ngồi tựa vườn đào
Thấy người thục nữ ra vào
Lòng những vấn vương
Gió lạnh đêm trường
Nửa chăn, nửa chiếu, nửa giường
Cô để đó chờ ai?
So chữ sắc tài
Yêu nhau chớ để cho người trăng gió hái hoa
Nguyện với trăng già
Tơ hồng kết lại một nhà đầm ấm yên vui
Ngồi tựa vườn đào
Thấy người tri kỷ ra vào
Em những ngẩn ngơ
Tháng đợi năm chờ
Nỗi niềm tâm sự bây giờ biết ngỏ cùng ai
Kết cỏ ngậm vành : Tôi xin “đền ơn, báo ơn” nghĩa là tôi xin báo ơn, đền ơn, đời đời không quên
Kết cỏ ngậm vành : Thành ngữ gốc Hán “Kết thảo hàm hoàn”, liên quan đến hai tích:
– Kết thảo: Cha của Ngụy Khỏa thời Xuân Thu dặn ông “khi ta chết thì chôn thiếp yêu của ta theo cùng.” Nhưng khi cha chết, Ngụy Khỏa không theo lời cha, cho người thiếp về lấy chồng. Về sau Ngụy Khỏa ra trận, đánh nhau với tướng giặc Đỗ Hồi mới vài hiệp, Đỗ Hồi đã ngã lăn xuống đất, bị Ngụy Khỏa bắt sống. Đêm ấy Ngụy Khỏa nằm mơ thấy một ông già đến tạ ơi, bảo “Tôi là cha của người thiếp được ông cứu sống, nay cảm cái ơn mà kết cỏ vướng chân ngựa Đỗ Hồi giúp ông để báo đáp.”
– Hàm hoàn: Dương Bảo đời Hán cứu một con sẻ vàng bị chim cắt đánh rơi xuống đất, mang về nuôi cho khỏe mạnh rồi thả đi. Đêm hôm ấy có đứa trẻ mặc áo vàng, ngậm bốn vòng ngọc đến lạy tạ, nói rằng: “Tôi là sứ giả của Tây Vương Mẫu được ông cứu vớt, nay xin đem lễ này đến tạ, cầu cho con cháu của ông được hiển đạt cao sang như vòng ngọc này.” Về sau con cháu của Dương Bảo đều làm quan to.
Bao giờ sum hiệp trúc mai
Lòng nguyền kết tóc lâu dài trăm năm.
Bãi dài cát nhỏ cát to
Thác đi thì mất sống lo kết nguyền
Anh có thương em đem bạc với tiền,
Chuộc duyên em lại, kết nguyền với anh.
Kết tóc xe tơ : Kết tóc xe tơ là lễ cưới hỏi, thành vợ thành chồng.
– Kết tóc: Thuở xưa, con trai và con gái đều để tóc dài bới lên đầu. Trong đêm tân hôn, tóc của dâu rể được các nữ tì buộc vào nhau.
– Xe tơ: Tóc được xem như tơ của ông Nguyệt Lão hay ông Tơ, đối xứng với bà Nguyệt
Một lòng kết tóc xe tơ
Một niềm chỉ đợi chỉ chờ một anh
– Anh đố em đếm hết sao trời
Đây anh kết tóc ở đời với em
– Trên trời biết mấy muôn sao
Biết dạ anh ở thế nào mà mong.
Duyên là tóc, tóc là tơ
Xe tơ kết tóc bậu chờ trông ai
Tóc bậu mới chấm ngang vai
Cha mẹ thương ít, nhưng trai thương nhiều
Cho dầu bậu trong trắng mĩ miều
Nhiều nơi lắm chốn, anh cũng chẳng chiều được đâu
Đồn em hay truyện Thúy Kiều
Lại đây mà giảng mấy điều cho minh
Vì đâu Kiều gặp Kim sinh?
Vì đâu Kiều phải bán mình chuộc cha?
Vì đâu Kiều phải đi xa?
Vì đâu Kiều phải vào nhà lầu xanh?
Hoa trôi bèo dạt đã đành
Vì đâu mắc phải Sở Khanh nói lừa?
Vì đâu kết tóc xe tơ?
Vì đâu Kiều phải lên chùa làm sư?
Vì đâu Kiều gặp họ Từ?
Báo ân báo oán trả thù sạch không?
Vì đâu Kiều bị mất chồng?
Vì đâu Kiều phải xuống sông Tiền Đường?
Bao nhiêu nghĩa thảm, tình thương
Em ơi giảng hết mọi đường anh nghe
Giữa trời cây cả bóng cao
Nhân duyên đã định xe vào cho anh
Trăm năm kết sợi chỉ mành
Ái ân gắn bó chung tình keo sơn
Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy
Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa
Em thương anh không dám nói ra
Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời
Anh với em cũng muốn kết đôi
Sợ vầng mây bạc trên trời mau tan.
Gà tơ xào với mướp già
Vợ hai mươi mốt chồng đà sáu mươi
Ra đường, chị giễu em cười
Rằng hai ông cháu kết đôi vợ chồng
Đêm nằm tưởng cái gối bông
Giật mình gối phải râu chồng nằm bên
Sụt sùi tủi phận hờn duyên
Oán cha trách mẹ tham tiền bán con
Một tình giời định kết đôi
Hai tình giời định xe tôi lấy chàng
Ba tình cho đá hợp vàng
Bốn tình cho thiếp với chàng gặp nhau
Năm tình trầu được bên cau
Sáu tình ta ở với nhau một nhà
Sao chàng chẳng rõ tình ta
Một đêm năm bảy lần ra tìm chàng
Thiếu cơm thiếu áo chẳng màng
Thiếu tình đoàn kết, xóm làng không vui
Tình cờ chẳng hẹn mà nên
Gặp nàng anh muốn kết duyên Châu Trần
Nên chăng Tấn hỏi thực Tần
Kẻ lòng nghi thị trăm phần chưa xong
Đôi ta tạc lấy chữ đồng
Ngày nào Ô Thước bắt xong nhịp cầu
Để mà kết nghĩa Trần Châu
Để mà ăn ở bền lâu một nhà
Trời mưa vần vũ gió đông
Kết duyên chẳng đặng, nhảy xuống sông trầm mình
Núi rừng thì có hươu mang
Khe suối thì có măng giang
Chợ tỉnh có mụ bán hàng
Đò dọc có đò ngang
Biết bao giờ em được lấy chàng
Núi rừng trả lại cho hươu mang
Khe suối trả lại cho măng giang
Chợ tỉnh trả lại cho mụ bán hàng
Đò dọc trả lại cho đò ngang
Ai mô trả nấy, thiếp với chàng kết duyên
Bướm bay dưới dạ cây bần
Làm sao kết nghĩa Châu Trần với nhau
Tình cờ ta gặp nhau đây
Quả cau ta bổ, chia tay mời chào
Ðôi ta kết nghĩa tương giao
Nào là quả mận, quả đào đong đưa
BỒ KẾT : KẾT HỢP KIỂU ÂM DƯƠNG THUẬN NGHỊCH
Quan hệ của bồ là quan hệ tiền bạc, quan hệ tiền trao cháo múc, quan hệ của kết là quan hệ ân nghĩa, tổng hơp lại là quan hệ đồng