ĐỀN BÀ

Loading

ĐỀN NHÀ BÀ

ĐỀN NHÀ BÀ – ĐỀN HẬU THỔ (Quận Đống Đa, Hà Nội)

– Đình Ứng Thiên – Đền Hậu Thổ (Đền Nhà Bà) là đình thôn Láng Hạ cũ, ở ngõ 151 Láng Hạ, thuộc quận Đống Đa, TP Hà Nội. Nơi đây xưa thuộc trại An Lãng, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên, ở phía nam kinh đô. Cuối thế kỷ XIX trại An Lãng cắt về tổng An Hạ, huyện Hoàn Long, tỉnh Cầu Đơ (sau đổi là Hà Đông). Đình nằm bên sông Tô Lịch.  

– Đền Hậu Thổ tương truyền có từ đời vua Lý Thánh Tông (khoảng 1069–1072).
– – – Theo sách “Việt điện u linh tập”, đức vua đi thuyền chinh nam gặp sóng lớn, được thần báo mộng giúp vượt qua Cửa Hoàn. Sáng ra vua sai tìm trên bờ thì được một khúc gỗ rất giống hình người trong mơ, liền đặt tên là “Hậu Thổ phu nhân”. Sau khi thắng trận và bắt được vua Champa là Chế Củ, vua đem tượng về kinh đô thờ cúng.
– – – Sách “Đại Việt Sử Lược” viết: năm Chính Long Bảo Ứng thứ 9 (1171) vua Lý Anh Tông sai sửa sang đền Hậu Thổ. Đến thời Trần Anh Tông, gặp lúc hạn hán vua bèn dựng đàn cầu đảo, thần báo mộng rằng: “Bản đền có Câu Mang Thần Quân có thể làm mưa được”. Nhà vua tỉnh dậy sai quan hữu ty đến làm lễ. Quả nhiên mưa lớn tràn ruộng, vua bèn ban sắc phong là “Ứng Thiên Hậu Thổ phu nhân”. Sau lại tôn phong là “Ứng thiên Hoá dục Nguyên trung Hậu Thổ Địa kỳ Nguyên quân”.
– Đình Văn Xá, Bình Lục, Hà Nam thờ nhị vị Thủy tề Long vương cùng song thân. Thần phả, sắc phong và truyền thuyết kể rằng
– – – Vào đời vua Lý Thái Tổ, ở Văn Xá, huyện Thanh Liêm có ông Cao Phúc kết hôn với bà Từ Thị Lang ở Văn Xá, huyện Nam Xang. Hai ông bà tuổi cao mà vẫn chưa có con. Một hôm, hai ông bà vớt được hai quả trứng trắng ngoài sông bèn đem về, 100 ngày sau nở ra 2 con rắn trắng, một con dưới bụng có chữ Câu Mang anh, một con có chữ Câu Mang em. Hai ông bà để nuôi và thương yêu như con đẻ.
– – – Một năm ở Thanh Liêm trời làm dịch bệnh, hai ông Cao Mang làm mưa to gió lớn tẩy trừ dịch bệnh cho dân rồi làm ra một cái giếng sâu và đi mất. Tương truyền, cái giếng này ở Văn Xá, Nam Xang có mạch thông sang Văn Xá, Thanh Liêm. Dân Văn Xá, Thanh Liêm lập miếu thờ.
– – – Cũng năm đó lũ to làm đê vỡ, hai ngài Bạch Xà từ giếng ra, đầu gối bên này, đuôi chạm bên kia nằm chắn khúc đê vỡ để ngăn dòng nước chảy, sau hai ngài lại ra sông đi mất. Quan sở tại tâu lên triều đình, nhà vua phong cho hai ngài là Nhị vị Thủy tề Long vương, thân phụ là Văn Phúc đại Vương, thân mẫu là Từ bà Văn Lang công chúa.
– – – Năm sau ở Nam Xang lại có dịch bệnh. Từ bà hóa thành con nghê tới làm phép chữa bệnh cho dân. Dân Nam Xang lập miếu thờ.
– – – Đến đời vua Lê Thái Tổ, sứ quân đi trừ đảng cướp ở Nam Xang. Khi qua Cầu Không, có nghỉ một đêm tại miếu làng Văn Xá. Đang đêm có một tiên nữ báo mộng là sẽ giúp sứ quân tiêu trừ đảng cướp. Sau khi dẹp yên đảng cướp, sứ quân tâu lên triều đình sửa sang thành đình làng, lại phong là Thượng đẳng phúc thần. Từ đó trở đi, dân thôn Văn Xá, Văn Lâm kết tình tương thân tương ái.

Đền Nhà Bà – Đền Hào Nam (Quận Đống Đa, Hà Nội)

Đền Hào Nam còn có tên là đền Nhà Bà, thờ Thuỷ Tinh công chúa, có nơi gọi là Bảo Hoa công chúa, là người Hào Nam, có công trong việc giúp Lý Thường Kiệt lãnh đạo quân dân Đại Việt chống Tống thắng lợi.

ĐỀN NHÀ BÀ – LÀNG YÊN MỸ

ĐỀN NHÀ BÀ (xã Tiên Du, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ)

Đền Nhà Bà thuộc tổng Hạ Giáp, phủ Lâm Thao xưa, nay là xóm Núi xã Tiên Du, huyện Phù Ninh. Đền nằm trong quần thể di tích tín ngưỡng gồm có đền Nhà Bà, đình Tối Linh và chùa Thái Bình. Theo các cụ cao niên trong làng kể lại, trước kia, Đền Nhà Bà chỉ là một ngôi miếu nhỏ gọi là miếu Dui, tọa lạc trên một quả gò cao xóm Núi nay thuộc khu 1, xã Tiên Du. Sau nhiều lần tu sửa, tôn tạo, miếu Dui đổi thành đền Mẫu, hay đền Nhà Bà.

Đền thờ hai công chúa con vua Hùng Vương thứ 18 là Tiên Dung và Ngọc Hoa với mong cầu cho mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, nhân khang vật thịnh. Tương truyền, trước đây hai nàng công chúa đã đến vùng quê này vừa để du xuân, vừa dạy nhân dân săn bắn, hái lượm và trồng cây… nên mảnh đất này được gọi là Tiên Du.

ĐỀN NHÀ BÀ (Khu 6, xã Tu Vũ, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ)

– Ngày xưa là Tương Giang Từ

– Thờ

– – – Tản Viên, Cao Sơn, Quý Minh

– – –  Quế Hoa, Ngọc Hoa, Đào Hoa công chúa (Làng Đồng Xuân xưa có 4 ngôi miếu thờ Quế Hoa Công Chúa, Đào Hoa Công Chúa, Đức nhà Quan, Bà chúa Đá, Bà Chúa Bờ, Đức chúa Lồ, Bà Chúa Thiện)

– – –  Thần linh địa phương : Ông Quan Lang, Bà Quang Lang, Bà chúa Nấm dạy dân làm nghề

– Lễ hội : 13-15/2 âm lịch

ĐỀN NHÀ BÀ – Đền Bà chúa Lâm Thao (Cao Mại, Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ)

Sự tích & Đền thờ riêng của Chúa Đệ Tam Lâm Thao
Chúa Lâm Thao hay còn được gọi là chúa Đệ Tam Lâm Thao hoặc bà Chúa Ót (tên gọi như vậy vì trong Tam Vị Chúa Mường, Chúa Lâm Thao là người thỉnh cuối cùng nên được coi là “út”, đọc chệch đi theo dân gian thì là “ót”.
Tương truyền, bà là con gái vua Hùng thứ 17, tên hiệu là Nguyệt Cư công chúa. Công chúa rất đep, nhưng từ bé bà đã bị hỏng 1 bên mắt.
Năm 475 trước Công nguyên, nước nhà có loạn, bọn tà phản nổi lên khắp nơi chống lại triều đình, Vua xuống chiếu chiêu mộ người tài ra cầm quân giết giặc, Lý Lang Công, quê mẹ ở Cao Mại (nay là thị trấn Lâm Thao, Việt Trì, Phú Thọ), tướng mạo tuấn tú, có tài thao lược xin được cầm quân giết giặc. Nhà Vua gả công chúa Nguyệt Cư cho ngài. Chúa cùng phò mã sống bên nhau rất hạnh phúc nhưng buồn thay cưới nhau đã lâu mà hai người chưa hạ sinh quý tử. Rất lấy làm khổ tâm và buồn bã, vào một hôm, chúa cùng phò mã vào tâu chuyện với đức vua. Đức vua cũng không biết làm sao đành khuyên 2 con về lập đàn tràng giữa trung thiên mà cầu đảo. Hai con vâng lời về lập đàn giữa trời y theo lời cha dặn. Đêm đó, chúa nằm thấp thỏm hi vọng trời đất thấu tình mà ban cho một đứa con. Gần đến sáng, chúa mới thiếp đi được một lúc và ngài nằm chiêm bao, ngài thấy từ trên trời cao có 12 con rồng bay sà xuống và bay hết vào miệng chúa. Chúa bừng tỉnh giấc và lạ thay, trên bụng người đâu ra có một cái bọc rất lớn. Chúa vội vàng mở ra và thấy trong bọc là 12 quả trứng rất to. Lòng chúa nao nao không biết nên mừng hay nên lo và kể lại giấc mơ lạ lùng cho phò mã. Phò mã nghe xong liền nở nụ cười mãn nguyện:” Vậy là trời đất đã thấu lòng của vợ chồng ta rồi, đây chắc chắn là 12 hoàng tử”( tay chỉ vào bọc trứng). Chúa nóng ruột vội vã chạy đến cung vua. Phò mã cũng chạy đuổi theo chúa. Trên đường 12 quả trứng đã dàn dần nở. Đầu tiên là 1 quả, rồi 3 quả, rồi 2 quả, xong lại 3 quả, 2 quả và khi đén chân núi Nghĩa Lĩnh (núi đền Hùng bây giờ) thì quả cuối cùng nở ra. 12 bé trai khôi ngô tuấn tú chào đời. Công chúa cùng phò mã mừng vui khôn xiết. Vua Hùng cũng rất đỗi mừng rỡ khi nghe chúa thuật lại chuyện giấc mơ và sự ra đời của 12 hoàng tử. Vua Hùng liền sai quân lập đàn để bái tạ trời đất. Lúc đó sấm sét nổi lên vang trời và lúc đó là lúc chúa được trời đất ban cho lộc bói và cả lộc chữa bệnh. 12 người con chúa lớn nhanh như thổi, tài giỏi hơn người, được Nghị Vương phong làm Lạc tướng trấn ải các nơi bảo vệ đất nước.
Lúc này là lúc Thục Phán đang nhòm ngó cướp nước ta, vua Hùng rất lo lắng. Một hôm, phò mã cùng người con cả ra sông đánh cá, cả ngày mà hai cha con chỉ đánh được duy nhất một con cá chép rất to. Về nhà, chúa làm thịt cá, khi mổ bụng ra thì lạ thay, trong bụng cá có một thanh gươm. Chúa hốt hoảng gọi cả nhà vào xem sự lạ. Khi đó, người con cả rút gươm trong bụng cá ra vung lên, một luồng hào quang sáng loé toả ra. Chúa ngồi tĩnh tâm xem kĩ và nói rằng ”đây là thanh gươm thần mà trời ban cho ta để giết giặc”. Ngay hôm sau, phò mã cùng con trai cả vào xin đức vua cho đi đánh đuổi giặc, vua đồng ý. Hai cha con ra chiến trường, cứ mỗi lần vung gươm lên là một luồng hào quang loé ra tiêu diệt quân giặc. Giặc chết như ngả rạ. Chúa ngồi nhà cũng đã bói trước được rằng 2 cha con sẽ thắng lớn. Quả đúng như vậy, hai cha con trở về với tin vui thắng lớn, từ đó dân chúng sống an lạc.
Chúa thường xem bói cho muôn dân biết trước tai ương mà tránh, ai có bệnh âm chúa bảo cách cúng lễ cho khỏi, ai bệnh trần chúa bốc thuốc cho được bình an.
Chúa hoá nhằm ngày 12/12. Khi chúa cùng gia đình lần lượt qua đời, nhân dân ghi nhớ công ơn nên lập đền thờ. Do sự hiển linh của công chúa giúp các triều đại vua sau này nên đã được ban tặng nhiều sắc phong. Sắc thời Cảnh hưng (1753) viết: “Công chúa Nguyệt Cư thừa lệnh Thượng đế, thuỷ quan nhân hoá, bình thư lầu thuộc, kiêm thông tâm lược mà vẫn yêu kiều, có công với nước phá giặc phương Đông. Sau khi hoá thì linh thiêng nơi Nam Thổ, làm cho gió thuận, mưa hoà, bảo dân hộ quốc, thiên uy vời vợi…”.
Hội của bản đền là từ ngày mồng 3 đến mồng 6 tháng giêng. Mồng ba thì làm lễ mộc dục, mồng 4 rước Chúa cùng phò mã đi quanh thị trấn và sang đền thờ người con trai cả. Khi rước thì kiệu phò mã rước ra trước và đứng lại ở mặt đường, kiệu chúa rước ra sau nhưng khi ra đường thì kiệu chúa lại đi trước. Đến mồng 6 lại rước Chúa cùng phò mã về bản đền. Ngày 10/3 giỗ Tổ Hùng Vương thì rước Chúa sang đền Hùng
Tóm tắt thông tin về bà Chúa Đệ Tam Lâm Thao
– Công Chúa Nguyệt Cư, Chúa Đệ Tam Lâm Thao
– Thời Vua Hùng Vương thứ 17 (nghĩa là trước thời của công chúa Nguyệt Hồ)
– Vùng Cao Mại (nay là thị trấn Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ) là quê chồng
– Bà sinh được 12 con trai (nở ra từ trứng rồng)
– Ngày hoá : 12/12 âm lịch tại quê chồng
– Đền Chúa Lâm Thao, vùng Cao Mại, thị trấn Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ
Bản văn Chúa Lâm Thao số 1
Bản văn này dùng để hát khi hầu giá chúa
Cao Mại quê nhà Lâm Thao…Cao mại quê nhà.
Anh linh chắc giáng Chúa Bà Đệ Tam
Đất hùng vương phi phương sáng tỏ
Cải phầm trần ai dễ ai hay
Lâm thao lịch sự ai tày…
Cù lao dưỡng dục đêm ngày nâng niu
Giá chắt chiu khăn vàng trát ngọc
Đáng nên tài quốc sắc tiên hương
Má đào vẻ hạnh phi phương…
Giá so tổng tử tề lương khôn bì
thủa nghi gia còn đương chau chuốt
Bỗng hoa hài trở gói về tiên
Hay đâu nguyệt chửa thủy nguyền….
Chồi thông phơi phới lá huyên dãi dầu
Chốn quỳnh lâu là nơi trang xuyến
Cửa trang đài để nhện tung tăng
Mấy toà mây dá vân lăng…
Nơi non cá xương vang lừng thuyền quyên
Chốn cửu tuyền mênh mông bỡ ngỡ
Ai đâu ngờ chúa giở gói tiên
Sớm khuya hầu cận ngai rồng
Ai trên được sắc vua phogn thẻ vàng
Chúa lâm thao chính ngôi công chúa
Vâng lệnh sai bái tạ trước sân
Ra uy ra vũ đằng vân..
Dạo chơi quán sở lầu tần tiêu dao
Ngày tử được ban cho huệ diệu
Sắc vua phong hòa diệu nữ vương
Có phen chơi cảnh đồi ngang
Dâng nhang ….lễ Mẫu tam tòa
Tiêu thiều nhã nhạc hát ca vang lừng
Cát nhật lương thời loan giá từ trung…
Lệnh sai thập nhị tiên nàng
Khăn điều áo thắm dịu dàng bước ra
Cô nàng cả dân bông dâng hoa
Nàng đôi tươi tốt, nàng ba dịu hiền
Cô nang tư dạo cảnh hồ tiên…
Đăng ai thâp thoáng bên lầu
Song đăng tiên chúa múa hầu Mẫu Vương
Nhác trông xa sáng tựa hào quang
Song đăng Chúa múa dịu dàng khoan thai
Lưng đai giọt ngắn giọt dài…
Đêm đêm đốt đuốc soi rừng
Nghe ba tiếng hú thú rừng gọi nhau
Đuốc ai sáng tỏ bên non
Một bầu xuân sắc tốt tươi rườm rà
Trên ngàn xanh lắm quả nhiều hoa…
Hài hoa dạo gót lên non
Trên ngàn chim hót véo von
Suối sâu cá lội tung tăng
Đồi núi bao la sương mờ nhạt nhòa
Thương thanh đồng loan giá về đây
Trên ngàn gió cuốn rung cây
Cất cao tiếng hát hòa vang câu ca
Lâm Thao Cao Mại quê nhà
Anh linh trắc giáng Chúa Bà Đệ Tam
Quyền hành cai quản sơn trang…
Sơn lâm các động xa gần làm tôi
Anh linh lừng lẫy núi đồi…
Nữ trung oanh kiệt toàn tài kiếm cung
Tuân lệnh sai thiên đình sắc chỉ
Chúa giáng trần diệt lũ tà kinh.
Chúa sai vạn vạn binh hùng…
Gần xa đâu đó dốc lòng làm tôi
Chúa đi khắp bốn phương trời…
Trung linh thần nữ đền thờ chí công.
Hùng Vương thánh tổ lạc hồng
Sớm khuya chầu chực ngai rồng vào ra.
Ngắm xem khắp hết gần xa…
Một lòng mộ đạo nhất tâm
Quy y Phật Tổ thần thông nhiệm màu.
Dù ai hiếu đạo kêu cầu
Xe loan Thánh Giá…Hồi Cung
Bản văn Chúa Lâm Thao số 2
Bản văn này dùng để hát thờ vào ngày tiệc của Bà (25/12 âm lịch)
Lâm Thao Cao Mại quê nhà
Anh linh trắc giáng Chúa Bà Đệ Tam.
Quyền hành cai quản sơn trang
Sơn lâm các động xa gần làm tôi.
Anh linh lừng lẫy núi đồi
Nữ trung oanh kiệt toàn tài kiếm cung.
Tuân lệnh sai thiên đình sắc chỉ
Chúa giáng trần diệt lũ tà kinh.
Chúa sai vạn vạn binh hùng
Gần xa đâu đó dốc lòng không sai.
Chúa đi khắp bốn phương trời
Trung linh thần nữ đền thờ chí công.
Hùng Vương thánh tổ lạc hồng
Sớm khuya chầu chực ngai rồng vào ra.
Ngắm xem khắp hết gần xa
Vào chùa Hương Tích Phật Bà Quan Âm.
Một lòng mộ đạo nhất tâm
Quy y Phật Tổ thần thông nhiệm màu.
Dù ai hiếu đạo kêu cầu
Nhang đăng khấn nguyện hương hoa cúng dàng.
Phép tiên Chúa giáng một khi
Cứu dân độ thế tức thì tan không.
Dạo chơi nam bắc tây đông
Lầu son phủ tía đền rồng vào ra.
Chúa vào cửa Mẫu tâu qua
Lạng Sơn Bắc Lệ lại ra phủ Hòn.

Đền Mẫu (Đền Nhà Bà) – Thị trấn Hưng Hóa – Huyện Tam Nông, Phú Thọ

ĐỀN NHÀ BÀ (ĐỀN QUỐC MẪU), thôn Tùy Hối, xã Gia Tân, Gia Viễn, Ninh Bình

Đền Nhà Bà  là di tích lịch sử cấp tỉnh nằm trên địa phận thôn Tùy Hối, xã Gia Tân .

Di tích dược nhân dân trong vùng xây dựng cách đây khoảng 700 năm (khoảng năm 1304-1307).

Đây là  nơi thờ cúng, tưởng niệm Trang Nương – vợ của Vua Trần Hưng Đạo và Hưng Nhượng đại vương Trần Quốc Tảng (con của Trang Nương và Vua Trần Hưng Đạo).

Theo cuốn Ngọc Phả còn lưu giữ ở đền, mẹ con Trang Nương  đi chu du thiên hại, đến khu vực Ái Châu, Trường Yên Phủ, Hoa Lư Động, Tùy Hối xã đã tiến hành lập cung, khai khẩn đất đai, mở mang nông nghiệp, hướng dẫn nhân dân dân làm ăn xây dựng, trấn hưng nhân nghĩa. Khi Trang Nương lâm bệnh và từ trần, nhân dân Tùy Hối đã cùng Hưng Nhượng đại vương đưa thi hài Trang Nương về Kiếp Bạc tỉnh Hải Dương để an táng. Nhà vua ban thần hiệu, tước vị cho bà, nhân dân làng Tùy Hối rước thần hiệu, tước vị của Trang Nương về làng lập đền thờ. Khi Hưng Nhượng đại vương từ trần, vua sai sứ thần cùng nhân dân Tùy  Hối hành lễ an táng và cho rước thần hiệu về thời chung một miếu tại đền Nhà Bà thôn Tùy Hối xã Gia Tân.

Đền Nhà Bà hay Đền Vại

– xã Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh;

– Ngôi đền này ban đầu được dùng để thờ bà Lê Thị Ngọc Điệp và chồng là Lê Ngọc Xán, về sau được mở rộng ra thờ nhiều vị thần, công thần, danh nhân và tổ tiên của các dòng họ trong vùng. 

– – – Ngô Thị Ngọc Điệp, hiệu Ngô Thị Quận Quân là chị ruột của Hoàng hậu Ngô Thị Ngọc Giao – mẹ vua Lê Thánh Tông 
– – – Lê Ngọc Xán vốn họ Cù (Cù Ngọc Xán), quê xã Trại Đầu, Hà Tĩnh (nay là xã Ân Phú, Hà Tĩnh), ông là Binh bộ Thượng thư đời nhà Lê, được vua ban sắc họ vua (họ Lê), ông được nhà vua phong Vương. Ông là phu quân của bà Ngô Thị Ngọc Điệp.

– Hiện nay đền là nơi thờ tự bà Lê Thị Ngọc Điệp và các vị:

  • Kê Quan Sơn đại vương
  • Huy Ánh Thùy Khánh đại vương
  • Kim Quy Sơn Tiền Trần trạng nguyên
  • Song Đồng ngọc nữ
  • Công chúa Sơn Tinh
  • Thổ Sơn Hùng Trấn
  • Sơn thần Cao Sơn
  • Thiên Trụ Đế Tích
  • Trạng nguyên Kim Tử Vinh Lộc
  • Giám sinh Quốc tử giám Lê Tiên Sinh
  • Bộ trưởng Cù Huy Cận.

Ngoài ra, đền còn thờ các Danh nhân và Thần tổ các dòng họ.

Đền Nhà Bà, Đông Triều, Quảng Ninh 

 

Ngôi đền nhỏ toạ lạc ven bờ phía Bắc hồ Cổ Lễ, thuộc thôn Tràng Bạch, xã Hoàng Quế (TX Đông Triều) có tên gọi đền Nhà Bà. Nơi đây tưởng niệm bà Vũ Thị Phương, người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Phụng Thiên xưa (nay thuộc huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên). Theo lưu truyền, bà Vũ Thị Phương ở thế kỷ XVII đã có tấm lòng đức độ bao dung, cảm thông với những nỗi khổ của nhân dân và đã giúp đỡ, cứu trợ mọi người dân ở vùng đất này. Ngôi đền được nhân dân xây dựng để thờ phụng và ghi ơn công đức của bà tại nơi này.

Theo sử sách còn ghi lại, thời Hậu Lê, Yên Tử là trung tâm phật giáo và danh thắng nổi tiếng cả nước. Hàng năm, vua quan trong triều đều về đây lễ bái. Trong dòng người thành kính đi lễ, luôn có bà Vũ Thị Phương. Khoảng năm 1608, bà cùng chồng là Đoàn Chính Trực về Yên Tử lễ chùa cầu tự. Mặc dù là vợ một vị quan, nhưng bà có tấm lòng đức độ bao dung, cảm thông với nỗi cực khổ của nhân dân. Khi đi qua các xã Nội Hoàng, Trung Lương, Nam Mẫu (nay là các xã Hoàng Quế, Tràng Lương, TX Đông Triều; Thượng Yên Công, TP Uông Bí), thấy dân ở đây bị mất mùa đói kém, đời sống cực khổ, bà đã bỏ ra 4 dật hoàng kim (mỗi dật 12 lạng) để cứu trợ cho dân nghèo 3 xã trên.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Việt sử thông giám cương mục: “Năm ấy (1608) dân trong nước bị đói to. Người dân các huyện Đông Triều, Giáp Sơn thuộc Hải Dương đã trải qua một nạn đói khủng khiếp, người chết đói nằm gối lên nhau…”. Được ơn sâu nghĩa cả của bà Vũ Thị Phương, nhân dân trong 3 xã dần qua cảnh mất mùa đói kém, chết chóc. Khi bà mất, nhân dân Nội Hoàng đã đóng góp công của, chặt tre đan vách dựng ngôi đền trong xã, tôn tên thuỵ của bà là Ngân Tử, lấy ngày bà mất để hàng năm hương hoả giỗ chạp. Sau này tôn bà là nhân thần và rước bài vị của bà và chồng bà về chùa Hoa Yên trên Yên Tử để thờ phụng, cho khắc bia đá lưu truyền mãi mãi. Bia được dựng vào năm Quý Mão (1723). Ở 2 xã Tràng Lương (Đông Triều) và Thượng Yên Công (Uông Bí) hiện cũng có đền thờ công đức bà Vũ Thị Phương.

Đền Nhà Bà, làng Tái Kênh, xã Đinh Xá (TP. Phủ Lý)

Làng Tái Kênh (xã Đinh Xá, Phủ Lý) có một ngôi đền cổ mà bao đời nay dân trong làng vẫn thành kính, quen gọi đền Nhà Bà. Ngôi đền nhỏ bé, khiêm nhường quần tụ giữa chòm xóm làng quê bình dị, ít người biết đến, thưa khách viếng thăm nhưng ẩn chứa trong đó một câu chuyện lịch sử đậm màu huyền thoại, giàu chất nhân văn và ắp đầy niềm tự hào của người dân nơi đây.

Theo bản ngọc phả mà các cụ cao niên trong làng còn lưu giữ, thời Tây Hán ở xã Tái Kênh, huyện Bình Lục (nay là Tái Kênh, Đinh Xá, Phủ Lý) có vợ chồng ông bà Nguyễn Thư, Trần Thị Chất vốn dòng dõi hào kiệt, ăn ở hiền lành, đức độ, hay làm điều thiện, cứu giúp kẻ khó.

Vào một ngày giữa kỳ nắng hạ năm Canh Thìn, bà Trần Thị Chất sinh được cô con gái vô cùng xinh đẹp, ông bà mừng vui khôn xiết bèn đặt tên là Nguyễn Thị Quỳnh Trân.

Theo năm tháng trưởng thành, Quỳnh Trân tìm thầy theo học, chữ nghĩa, binh thư thông thuộc, cầm, kỳ, thi, họa đều biết, cưỡi ngựa, bắn cung, múa kiếm giỏi giang hơn người. Là phận nữ nhi mặt hoa, da phấn nhưng Quỳnh Trân bản lĩnh không khác một trang nam kiệt.

Đất nước có loạn ngoại xâm, quan quân Thái thú Tô Định bạo ngược gây cảnh chết chóc, lầm than khắp nơi. Nghe tin con gái gia đình hào kiệt Nguyễn Thư đất Tái Kênh, Bình Lục tài sắc vẹn toàn, Thái thú Tô Định rắp tâm sửa biện lễ vật về tận nơi xin được kết duyên.

Bị gia đình một mực từ chối, Tô Định hèn hạ tìm cách ngấm ngầm hãm hại hào kiệt Nguyễn Thư. Bà Trần Thị Chất lo lắng, muộn phiền về cái chết của chồng sau đó ít lâu cũng lâm bệnh qua đời. Xót thương phụ mẫu, mang mối thù nhà, nợ nước khôn cùng, mười sáu tuổi Quỳnh Trân đứng lên chiêu mộ quân binh, đắp thành, dựng lũy ngay tại quê nhà Tái Kênh, ngày đêm luyện tập võ nghệ, tên cung, nghiên cứu binh thư… mưu cầu việc lớn.

Hào kiệt xa gần nghe tiếng, cảm phục theo về ủng hộ, phù giúp ngày một đông. Dân chúng trong vùng phấn khích, nể trọng, thuận lòng, đồng thanh suy tôn người con gái tài cao, chí lớn quê mình là Đức Lý Vua Bà.

Nghe tin Trưng Trắc, Trưng Nhị dựng cờ khởi nghĩa ở vùng Hát Giang, Quỳnh Trân cả mừng, hào hứng đem quân về tụ nghĩa. Sau khi hội binh, hợp lực cùng Hai Bà Trưng tiến đánh quân Tô Định, lập nhiều công lớn, lấy lại được tất cả 65 thành trì, người con gái anh hùng quê hương Tái Kênh được Trưng Vương phong là Quỳnh Trân công chúa, ban thưởng trọng hậu và cho trở về lập thực ấp ở Bình Lục.

Trả xong nợ nước, thù nhà, vâng mệnh Trưng Vương, Quỳnh Trân công chúa xa giá về quê hương Tái Kênh. Dân chúng trong vùng hân hoan hành lễ đón mừng và nhất tâm nhận làm thần tử. Quỳnh Trân công chúa vui vẻ nhận lời, rồi tìm lại đúng nền đất gia tộc, trước sửa biện lễ vật thành kính dâng cúng tổ tiên, báo hiếu cha mẹ, sau mở đại tiệc mừng thắng lợi, khao thưởng quân binh, thết đãi họ mạc, dân làng.

Tiếp đó, Quỳnh Trân Công chúa cho miễn trừ thuế khóa, khoan sức dân, lại ban thưởng vàng bạc để trăm họ Tái Kênh mua ruộng, ao tốt làm đất công bảng. Hết lòng chăm lo cho dân chúng, Quỳnh Chân công chúa nhất mực chuyên tâm lấy đức độ, nhân nghĩa để gây dựng mối hòa thuận trên dưới đồng lòng, dốc tâm huyết, khoan dung để bồi đắp thuần phong, mỹ tục.

Trong vòng mấy năm, phủ nội thanh bình, trăm họ dân chúng ấm no. Tin lành đồn xa, nơi triều chính Trưng Vương biết chuyện càng hết mực yêu quý, trọng dụng Quỳnh Trân công chúa.

Cuộc sống bình yên mới được tròn ba năm thì Mã Viện lại hùng hổ đem quân sang xâm lược, báo thù nỗi nhục bại trận. Quỳnh Trân công chúa đem quân tiếp viện, hợp lực cùng Trưng Vương chống giặc. Trước thế địch mạnh, sau mấy tháng bất phân thắng bại, lương thảo cạn dần, binh sĩ ốm đau, núng thế Trưng Vương cho quân lui về trấn giữ thành Cấm Khê.

Khi thành Cấm Khê bị vây hãm, Trưng Vương  cùng quân sĩ quyết chiến phá vây nhưng bất thành, thế cùng đành tháo lui về Hát Giang rồi gieo mình tự vẫn. Còn Quỳnh Trân công chúa, sau khi được lệnh lui quân, bèn cùng thuộc hạ rút về núi Phật Tích (nay thuộc Tiên Du, Bắc Ninh) quyết chống cự đến cùng.

Lâm vào thế nguy, bị quân Mã Viện truy bắt, Quỳnh Trân công chúa rút gươm tự vẫn, bảo toàn khí tiết. Hôm đó là ngày 5 tháng 8. Dân chúng Tái Kênh nghe tin dữ vô cùng thương tiếc bèn lập dựng ngôi đền ngay trên nền đất bản doanh mà Quỳnh Trân công chúa xưa kia chiêu mộ quân binh, rồi thành kính suy tôn thần hiệu “Đô Đức Lý Vua Bà Quỳnh Trân công chúa” để phụng thờ.

Nhiều triều đại phong kiến sau này, vì cảm phục nghĩa khí Trưng Vương và các danh tướng dưới thời nên đều phong ban mỹ tự, sức cho dân chúng các vùng trùng tu miếu điện, đời đời ghi nhớ. Quỳnh Trân công chúa được phong sắc và ban mỹ tự “Xuân Hoa Phương Dung Gia Hạnh Ngọc Nữ”.

Dân làng Tái Kênh nghe tin bèn lập tức cử người lai kinh xin rước sắc phong về đền lưu giữ để muôn đời cháu con được tường tận gốc tích và đồng tâm tôn vinh, phụng thờ. Từ đó, mọi cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa màng hanh thông, tươi tốt đều được linh ứng. Nhiều triều đại phong kiến sau này còn truy phong “Thượng đẳng phúc thần”.

Nền đất cũ của gia tộc hào kiệt Nguyễn Thư, Trần Thị Chất thân sinh ra Quỳnh Trân công chúa nằm ở phía đông nam làng Tái Kênh, nay vẫn còn dấu tích khẩu giếng cổ quanh năm đầy nước.

Đền thờ Quỳnh Trân công chúa (còn có tên đền Ngọc Nữ) mà dân làng Tái Kênh xưa nay vẫn quen gọi “Đền Nhà Bà” tọa trên thế đất đẹp, đúng nơi bản doanh nữ tướng chiêu mộ quân binh, nay quần tụ giữa xóm dân cư bình yên của quê hương công chúa. Điểm đặc biệt độc đáo của đền Nhà Bà là có hai cung trong, ngoài được bài trí y hệt nhau. Cung trong thờ Đô Đức Lý Vua Bà – Quỳnh Trân công chúa; cung ngoài thờ gia tiên thân sinh ra Vua Bà.

Không biết có phải đây là nguyên do mà dân làng Tái Kênh bao đời nay luôn gọi ngôi đền thờ Quỳnh Trân công chúa bằng cái tên nôm na và gần gũi, dân dã “Đền Nhà Bà”. Gia tộc hào kiệt Nguyễn Thư, Trần Thị Chất hiếm muộn chỉ có duy nhất mụn con gái lại là một trang liệt nữ anh hùng, xả thân vì nghĩa lớn.

Dòng tộc không người nối dõi, gia tiên không người thờ cúng, vậy nên dân chúng Tái Kênh dẫu ở đất chiêm trũng nghèo khó, “ít bãi, hẹp đồng” nhưng giàu lòng nhân hậu, vẹn tròn tình nghĩa, hiếu đễ trước sau muốn thành tâm chăm lo chu tất việc khói hương thờ cúng, làm tròn nghĩa vụ thiêng liêng với bậc tiền nhân đã dốc lòng vì dân, vì nước.

Và cũng bởi vậy nên hằng năm, vào ngày 13 tháng 6 (ngày sinh) và mùng 5 tháng 8 (ngày Đô Đức Lý Vua Bà hóa thánh) dân các dòng họ của giáp Đông, giáp Tây làng Tái Kênh cùng khách thập phương lại thành kính sửa biện lễ vật dâng cúng, tế lễ rất chu tất, trọng hậu.

Đền nhà bà – Xóm 3 Xã Nam Xuân, Huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An

Đền thờ Ngọc Hân công chúa (1770-1799) hay Bắc Cung hoàng hậu, là một nhân vật lịch sử nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam thời thế kỷ 18. Bà là công chúa nhà Hậu Lê, sau trở thành hoàng hậu nhà Tây Sơn với tư cách là vợ thứ của Quang Trung hoàng đế Nguyễn Huệ.

Năm 1786, tướng nhà Tây Sơn là Nguyễn Huệ ra Bắc với chiêu bài “phù Lê diệt Trịnh”. Diệt xong họ Trịnh, Nguyễn Huệ tới yết kiến Lê Hiển Tông. Do sự mai mối của tướng Bắc Hà vào hàng Tây Sơn là Nguyễn Hữu Chỉnh, Ngọc Hân vâng mệnh thành hôn cùng Nguyễn Huệ. Khi đó bà mới 16 tuổi, còn Nguyễn Huệ 33 tuổi và đã có chính thất là Phạm Thị Liên.

Vài ngày sau, Lê Hiển Tông băng hà, triều đình rơi vào vấn đề chọn người kế vị. Lê Ngọc Hân nghĩ anh thân hơn cháu nên ủng hộ anh là Lê Duy Cận lên ngôi, nhưng bị tông tộc nhà Lê phản đối vì muốn lập Hoàng thái tôn Lê Duy Kỳ – con của Cựu thái tử Lê Duy Vỹ lên ngôi. Do áp lực của tông tộc, Ngọc Hân phải nghe theo. Lê Duy Kỳ được lập, tức là Lê Chiêu Thống. Ít lâu sau, bà theo Nguyễn Huệ về Thuận Hóa.

Năm Chiêu Thống thứ 2 (1788), Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế trước khi ra Bắc để diệt quân Thanh, lấy niên hiệu Quang Trung, phong Ngọc Hân làm Hữu Cung Hoàng hậu do chính thất Phạm thị đã được phong làm Trung Cung hoàng hậu. Năm sau (1789), sau khi đại thắng quân Thanh, Nguyễn Huệ lại phong bà làm Bắc Cung hoàng hậu.

Tương truyền rằng ngày xưa tại vùng đất này địa danh Bàu Nón có cá rô rất ngon, thịt béo mà lại thơm nên thường xuyên phải đưa đi cống tiến cho triều đình rất cực khổ và vất vả. Thương dân lành bà chỉ cách nuôi cá rô bằng phân trâu, phân bò tuy cá béo, hình thức đẹp mắt nhưng ăn không ngon nên sau này người dân Bàu Nón được miễn cung tiến. Tưởng nhớ công ơn của bà, khi bà mất người dân vùng này lập đền thờ và nhang khói cho đến ngày nay.

Đền Nhà Bà (đền Sa Lãng) tưởng nhớ nữ tướng Sa Lãng thời Hai Bà Trưng

 

 Lễ hội đền Nhà Bà là loại hình lễ hội dân gian được tổ chức ngày mùng 7 đến mùng 9 tháng Ba âm lịch tại xã Liên Trung và Liên Hà, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội. Lễ hội do cấp xã tổ chức, cấp huyện quản lý để tưởng nhớ bà Sa Lãng là nữ tướng thời Hai Bà Trưng. Cuốn sách “Hồ sơ tư liệu văn hiến Thăng Long – Hà Nội: Tập 7 – Huyện Đan Phượng – Huyện Hoài Đức – Huyện Phúc Thọ” do PGS.TS. Vũ Văn Quân chủ biên dày 1.000 trang, đây là tập thứ 7 của Bộ sách “Hồ sơ tư liệu văn hiến Thăng Long – Hà Nội” thuộc Tủ sách Thăng Long ngàn năm văn hiến giai đoạn II. Tập sách này giới thiệu tổng quát về vị trí địa lý, lịch sử diên cách, các đặc điểm nổi bật về lịch sử, kinh tế, văn hoá, các di sản văn hoá vật thể – phi vật thể đã và đang tồn tại tại các cơ sở xã, phường, thị trấn trên địa bàn 30 quận, huyện Hà Nội hiện nay, trong đó xã Liên Hà là xã có những di sản phi vật thể tài liệu văn khắc, thần tích, thần sắc; nhiều di sản vật thể được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia trong đó có giới thiệu chi tiết lễ hội đền Nhà Bà.

Tương truyền, khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa, bà Sa Lãng đã chiêu binh luyện tập, sau đó kéo quân về với Hai Bà Trưng đánh giặc, lập được nhiều công lao. Bà được ban tước lộc và cho hưởng thực ấp tại Hạ Trì. Bà dạy dân cấy lúa nước, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, đóng thuyền, thả lưới bắt cá trên sông. Sau khi bà mất, nhân dân lập đền thờ cúng, đời đời hương khói để tưởng nhớ công ơn bà.

Lễ hội đền Sa Lãng là lễ hội lớn nhất của huyện Đan Phượng hiện nay. Ngày mùng 7, các lực lượng tham gia lễ hội tập trung tại đình và đền. Mọi người bao sái đồ tế khí, chồng kiệu vào nơi quy định rồi tiến hành lễ nhập tịch. Ngày mùng 8 là chính hội, buổi sáng có nghi lễ tế thần, chủ tế giữ vai trò “con trưởng” của thánh Mẫu. Đầu tiên làm lễ tuyên sắc phong của các triều vua đã ban tặng thánh đền Sa Lãng. Mỗi năm dân làng chọn một đại sắc để đọc trước khi vào tế. Tế gồm ba tuần tế dẫn dâng nước, dâng rượu, dâng hoa… đều có phường bát âm tham gia. Sau khi đọc xong, bài văn tế được hoá trước ban thờ, quan viên tế cùng dân chúng lễ tạ. Sau tế lễ là màn múa sênh tiền. Tiếp theo là cuộc rước lớn dọc trên đê sông Hồng từ đền Sa Lãng xuống đình chợ Dày. Đi đầu đoàn rước là hàng cờ ngũ sắc, tiếp theo là hương án, trên đặt hương và hoa quả. Đi sau kiệu là giá văn. Điểm giữa các kiệu là hai hàng binh khí, bát bửu, cờ lệnh, tiếp đến là kiệu võng đào chạm hình 4 con rồng, rồi đến kiệu mui luyện lớn. Đoàn rước giống như một đoàn quân hoành tráng tiến về tụ nghĩa ở Hát Môn. Đi phía sau kiệu là các quan viên, bô lão và dân chúng tham dự lễ hội. Khi đoàn rước đi qua cổng làng nào có đặt bàn bái vọng thì dừng lại một chút. Cứ như thế đến sẩm tối đoàn rước mới về đến cổng đình chợ Dày. Nhân dân đốt đèn đuốc sáng hai bên đường đón đoàn rước Thành hoàng vào đình.

Lễ hội đình Dày có tục rước sắc. Xưa, mỗi làng xây một nhà thờ vọng thủ, đặt ở giữa làng. Đây là nơi trông giữ sắc phong sau ngày giã hội. Lần lượt từng làng được cử giữ sắc phong của thánh một năm. Họ quan niệm rằng năm nào được hầu thánh, làm ăn sẽ thịnh đạt hơn. Đám rước sắc về làng, người ta trải chiếu hoa suốt từ đền đến nhà vọng thủ. Đêm, nhà vọng thủ sáng đền tế lễ yên vị.

Ngày mùng 9 các làng lần lượt vào tế.

Phần hội: Lễ hội đền Sa Lãng diễn ra các hoạt động thể hiện sức mạnh của nghĩa quân do nữ tướng Sa Lãng chỉ huy đánh giặc lúc đương thời. Đó là cuộc thi đánh trống cái và trống dờn của các làng trong xã. Buổi tối ở đình Dày và đền Sa Lãng có hát ca trù hầu thánh nhưng không được hát chèo ở cửa đình và đền.

Lễ hội đền Sa Lãng có hội bơi chải tái hiện cảnh trẩy quân trên thuyền của nữ tướng ngược sông Hồng theo Hai Bà Trưng đi đánh giặc. Ngoài ra còn có trò đấu vật, đánh cờ người, thi thổi cơm.

Đền Nhà Bà, Thôn Từ Đài Thị xã Duy Tiên, Tỉnh Hà Nam

Đền Nhà Bà xã Cao Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An

ĐỀN Bà CHÚA VỰC

– Đền Bà chúa Vực Hưng Yên

– Đền Bà Chúa Vực, ngõ 221, thôn Tế Xuyên, Đình Xuyên, Gia Lâm (sông Thiên Đức)

– Đền Bà Chúa Vưc, Bạch Đằng, Hà Nội (sông Hồng)

– Đền Bà chúa Vực, ngõ 221 Thinh Quang, Đống Đa, Hà Nội (sông Tô Lịch)

ĐỀN BÀ CHÚA KHO

– Đền Bà chúa kho Giảng Võ

– Đền Bà chúa Kho, Cổ Mễ, Vũ Ninh, Bắc Ninh

– Đền Bà chúa kho Trung Cơ

Đường Thiên Đức, Vệ An, Bắc Ninh

– Đền bà Chúa Lâm Thao

Đền thờ Chúa Lâm Thao tại Cao Mại, Lâm Thao, Việt Trì, Phú Thọ, nơi đây từng là kho lương của bà cai quản khi xưa,

ĐỀN VUA BÀ

– Đền Vua bà Thuỷ Tổ Quan họ

Viêm Xá, TP Bắc Ninh

– Đền Vua Bà

Lam Điền, Thuỵ Hương, Chương Mỹ, Hà Tây

– Đền Vua Bà

TL282 Ngụ, Nhân Thắng, Gia Bình, Bắc Ninh

– Đền Vua Bà

Làng Bương Hạ, Quỳnh Ngọc, Quỳnh Phụ, Thái Bình

– Đền Vua Bà

Thuần Tuý, Đông La, Đông Hưng, Thái Bình

– Đền Vua Bà

Yên Đồng, Yên Mô, Ninh Bình

– Đền Vua Bà

Trưng Vương, Uông Bí, Quảng Ninh

– Đền Đức Vua Bà – Đền Quả Cảm

Bắc Nình

– Đền thờ Đức Vua Bà

Tp Bắc Ninh

Miếu Vua Bà

– Miếu Vua Bà

Trần Nhân Tông, Yên Giang, Quảng Yên

– Miếu Vua Mỹ Đình

MIẾU BÀ

– Miếu Bà

Hoàng Hoa Thám, Ngọc Hà, Ba Đình

– Miếu Bà

Thượng Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội

– Miếu Bà

Thôn Yên Nhân, Tiên Phong, Mê Linh

– Miếu bà Cô

Kha Ký Thượng, Việt Yên, Bắc Giang

– Miếu Ban – Nơi sinh Thánh Gióng

Phù Dực, Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội

MIẾU BÀ CHÚA XỨ

– Miếu bà chúa Xứ Núi Sam

– Miếu bà chúa xứ An Giang

ĐỀN BÀ

ĐỀN BÀ KIÊU

Đinh Tiên Hoàng, Hoàn Kiếm

Đền Bà Vũ

Vũ Điện, Chân Lý, Lý Nhân, Hà Nam

 

Chia sẻ:
Scroll to Top